Thiền Tông Việt Nam
Thanh Từ Toàn Tập 6 - Kinh Lăng-già Tâm Ấn Giảng Giải - Phần I
Phần Chánh Tông

PHẦN CHÁNH TÔNG (Phân làm hai phần)

- CHỈ THẲNG PHÁP MÔN ĐỆ NHẤT NGHĨA RỘNG LỚN VI DIỆU LÌA NÓI BẶT CHỨNG

- BÀY NGÔN THUYẾT ĐỂ VÀO ĐỆ NHẤT NGHĨA BIỂN THỨC THƯỜNG TRỤ, DÙNG HIỂN DUY TÂM

CHỈ THẲNG PHÁP MÔN ĐỆ NHẤT NGHĨA RỘNG LỚN VI DIỆU LÌA NÓI BẶT CHỨNG

A. HỎI MỘT TRĂM LẺ TÁM CÂU

Một trăm lẻ tám câu hỏi đó mang ý nghĩa gì? Đó là nghi vấn đáng cho chúng ta phải lưu tâm. Như người tu Tịnh độ có xâu chuỗi một trăm lẻ tám hạt để tượng trưng hết thảy chúng sanh và ngoại cảnh, thế giới đều gồm trong đó. Ngài Đại Huệ hỏi một trăm lẻ tám câu cũng ngụ ý tất cả ngã nhân và tất cả pháp đều nằm gọn trong đây. Qua một trăm lẻ tám câu chúng ta chỉ học danh từ, còn ý thâm trầm là ở chỗ không có pháp thật. Vì vậy đức Phật chỉ dùng một chữ Phi hoặc một chữ Bất để trả lời là đủ.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ nói kệ tán Phật rồi, tự trình danh tánh, con tên là Đại Huệ thông đạt được Đại thừa, nay đem một trăm lẻ tám câu thưa hỏi bậc Tôn tối thượng (Phật).

Bồ-tát Đại Huệ nói mình hay thông đạt Đại thừa, như vậy có phải tự đề cao không? Mới nghe dường như thế mà không phải. Đây muốn nêu lên thâm ý: những câu hỏi của ngài đều nhắm thẳng vào Đại thừa chứ không có pháp nào khác.

Bồ-tát tự nói thông đạt Đại thừa, vì muốn người đương thời và kẻ hậu thế biết nghĩa hỏi ở đây đều là chỗ thiết yếu của Nhất thừa, chẳng phải chỗ sai biệt của các thừa.

Nêu lên như vậy để biết trọng tâm câu hỏi của ngài.

Bậc Thế Gian Giải (Phật) nghe kệ kia rồi, quán sát tất cả chúng, bảo các Phật tử rằng: “Phật tử các ông! Nay cho mặc tình hỏi, ta sẽ vì các ông nói cảnh giới tự giác.”

Cảnh giới tự giác là chỗ chứng của chư Phật trong mười phương và ba đời. Trong bốn quyển lặp đi lặp lại xét rõ trọn không ngoài ý này, nên trước vì nêu bày ra.

Đức Phật xác nhận, ngài nói là nói cảnh giới tự giác, không nói cảnh giới bên ngoài. Cho nên bao nhiêu lời chỉ dạy trong kinh đều nhắm vào cảnh giới tự giác. 

Khi ấy, đại Bồ-tát Đại Huệ nhân lời Phật đã nói, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính dùng kệ hỏi rằng:

Thế nào tịnh niệm kia?

Thế nào niệm tăng trưởng?

Thế nào thấy si hoặc?

Thế nào hoặc tăng trưởng?

Thế nào hóa tướng cõi?

Và các chúng ngoại đạo?

Cớ sao không thọ thứ?

Vì sao gọi vô thọ?

Niệm là vọng giác. Si hoặc là bất giác.

Chữ niệm là chỉ cho vọng giác, ta quen dùng là vọng tưởng. Si hoặc là bất giác, bất giác là gốc, vọng giác là ngọn.

Chân như không tánh bất giác vọng động, kiến hoặc vừa sanh liền có vọng giác.

Từ thể chân như chợt có bất giác, từ bất giác có kiến hoặc, từ kiến hoặc có vọng giác. Như vậy trải qua hai ba chặng. Chúng ta có thể tạm thí dụ như từ mặt biển phẳng rồi khởi sóng. Khi sóng vỗ mạnh thì sanh bọt. Sóng thí dụ cho bất giác, mặt nước phẳng dụ cho chân như không giữ tự tánh nên khi gió thổi, sóng lớn dấy lên. Dấy sóng là dụ cho bất giác. Từ sóng đùa sanh ra bọt, bọt là dụ cho vọng giác. Hiện tại chúng ta tu là để thấy vọng giác hư dối, đừng lầm nó để trở về chỗ gốc, phá được cái si hoặc ban đầu là bất giác.

Muốn sạch vọng giác thì phải tìm tột chỗ khởi vọng giác.

Muốn sạch hết vọng giác (vọng tưởng) thì phải tìm tột chỗ khởi vọng giác.

Muốn ngộ bất giác thì cần xét cùng chỗ sanh bất giác. Chừng ấy mới biết chân như không tánh là mật chỉ của chư Phật, nên phải hỏi trước.

Từ chân như không tánh khởi lên bất giác, bất giác rồi có si hoặc sanh ra vọng giác, đó là cái gốc của chỗ trở về.

Cõi tức là cõi nước. Hóa tướng là tất cả tướng biến hóa trong lục đạo.

Tất cả tướng trong lục đạo đều là tướng biến hóa. Như chúng ta thấy tướng người này kẻ kia, tướng nam tướng nữ... là tướng thật. Với con mắt Phật và Bồ-tát thì thấy đó là tướng hóa hiện không thật. Tại sao? Bởi vì tạm có đó rồi mất. Giả sử có người nào sống được một triệu năm, nhìn lại cuộc sống mấy chục năm này rất buồn cười. Chú đó loay hoay ít bữa nhìn lại mất tiêu! Chú kia ra đời loay hoay ít bữa rồi mất v.v... những hình bóng chợt thấy rồi mất, không giả dối hư huyễn là gì? Thí dụ như bọt nước hay bong bóng nước có hay không? Có chứ, nhưng gió qua thì bể, hoặc đụng tới thì nát. Có mà không bền chắc thì gọi đó là huyễn hóa, không phải huyễn hóa là không ngơ.

Trước nói ngoại đạo, sau đề ra vô thọ, đó là muốn biện sự sai biệt của tà chánh.

Ngoại đạo là tà, vô thọ là chánh.

Vô thọ là Mâu-ni tịch tĩnh, chẳng thọ một pháp, lìa các tướng trạng.

Ý câu này tương tự trong nhà thiền, Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ: Người không cùng muôn pháp làm bạn là người gì? Mã Tổ trả lời: Chừng nào ông hớp một ngụm hết nước Tây Giang ta sẽ vì ông mà nói. Vô thọ Mâu-ni tịch tĩnh là pháp thân, chẳng thọ một pháp là không có bạn, còn có thọ là có bạn, lìa các tướng trạng thì đâu có bạn. Nên khi hỏi Người không cùng muôn pháp làm bạn là lìa các tướng trạng đó. Người không thọ một pháp là người vượt khỏi đối đãi của ngôn ngữ, bởi vậy Mã Tổ dùng phương tiện bảo ông hớp một hớp cạn nước Tây Giang ta sẽ vì ông nói. Qua đó Bàng Uẩn ngộ, còn chúng ta nghe thì thấy kỳ quặc. Mã Tổ nói câu đó giống tiếng hét của ngài Lâm Tế không? Tuy nói mà không có nói gì hết.

Thứ là thứ lớp các địa. Kinh Kim Cang nói “do pháp vô vi mà có sai biệt”.

Cùng tu pháp vô vị mà có các quả chứng sai biệt. Thí dụ chứng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Các vị đó đều căn cứ trên pháp vô vi mà tu, nhưng tại sao lại có sai biệt? Vì chưa viên mãn, trong khi chưa viên mãn thì thấy có sai khác.

Cớ sao gọi Phật tử?

Giải thoát đến chỗ nào?

Ai phược, ai giải thoát?

Những gì cảnh giới thiền?

Tại sao có ba thừa?

Cúi mong vì giải nói.

Duyên khởi chỗ nào sanh?

Thế nào tác, sở tác?

Thế nào đồng dị thuyết?

Thế nào là tăng trưởng?

Thế nào vô sắc định?

Và cùng diệt chánh thọ?

Thế nào là tưởng diệt?

Vì sao từ định giác?

Thế nào tạo tác sanh?

Tiến đi và giữ thân?

Thế nào hiện phân biệt?

Thế nào sanh các địa?

Câu “Giải thoát đến chỗ nào” là muốn hiển bày Mâu-ni tịch tĩnh, không có phược và thoát, nên nói tiếp “ai phược ai giải”.

Đứng về mặt pháp thân thì không có gì là trói buộc, không có gì là giải thoát. Thân chúng ta là do nghiệp nên nói nghiệp trói buộc. Vì vậy nói trói buộc là căn cứ trên thân hư dối này, còn về pháp thân thì không có gì là trói là phược. Tổ Đạo Tín khi còn làm Sa-di hỏi tổ Tăng Xán: “Bạch Hòa thượng, xin dạy con phương pháp giải thoát.” Tam tổ hỏi lại: “Ai trói buộc ông?” Đạo Tín trả lời: “Dạ, không ai trói buộc hết.” Tổ Tăng Xán nói: “Cầu giải thoát làm gì?” Ngay đó ngài Đạo Tín ngộ được thể không trói buộc, không giải thoát.

Nói không có giải có phược là bởi mê ngộ vọng thấy mà thôi.

Mê gọi là trói, ngộ gọi là giải, đó là căn cứ trên mê ngộ. Thể chân thật không có mê ngộ nên không có trói và mở.

Cảnh giới thiền là chỉ các thiền định của phàm thánh. Duyên khởi là pháp do nhân duyên sanh ra. Tác, sở tác là nghiệp quả năng tác và sở tác. Đồng dị thuyết là chỉ ngoại đạo tà thuyết.

Ngoại đạo thiết lập các học thuyết có đồng có khác nhau nên gọi là đồng dị thuyết.

Tăng trưởng là nhân gì tăng trưởng nhân quả trong tam giới?

Nói tăng trưởng đó là do nhân gì làm cho tăng trưởng nhân quả trong tam giới.

Vô sắc định là Tứ không. Diệt chánh thọ là Diệt tận định. Tưởng diệt là Vô tưởng định. Từ định giác là, hỏi Như Lai vì sao từ định mà giác khởi các tác dụng, thị hiện thân có đi có đứng. Hiện phân biệt là, hiện nói các thứ pháp sai biệt. Sanh các địa là, kiến lập hành tướng các địa.

Ở đây chỉ giải các danh từ thôi, không nói lý thâm sâu.

Ai người phá ba cõi?

Ở đâu? thân thế nào?

Vãng sanh đến chỗ nào?

Thế nào Tối thắng tử?

Nhân gì được thần thông?

Và tự tại tam-muội?

Thế nào tâm tam-muội?

Tối thắng vì con nói.

Phá ba cõi là chỉ chung cho hàng tam thừa ra khỏi tam giới.

Hàng tam thừa ra khỏi tam giới gọi là phá ba cõi. Chúng ta đang tu đây là phá ba cõi hay xây dựng ba cõi? Nếu nuôi dưỡng tham, sân, si là xây dựng ba cõi, phá hoại tham, sân, si là phá ba cõi.

Đã ra khỏi tam giới, trụ ở chỗ nào, thọ những thân gì, vãng sanh đến chỗ nào.

Khi ra khỏi tam giới rồi trụ ở đâu, thọ thân như thế nào, vãng sanh đến chỗ nào.

Nói thánh nhân tam thừa đồng ra khỏi tam giới, song thân và cõi chẳng đồng, ứng và hóa mỗi vị có khác.

Thanh văn thừa cũng ra khỏi tam giới nhưng chỗ giác ngộ, chỗ chứng quả khác với Duyên giác thừa. Duyên giác thừa khác với Bồ-tát thừa. Vì vậy mà nói rằng ứng và hóa mỗi vị có khác.

Tối thắng tử là chỉ chư Bồ-tát. Thần thông là sáu pháp thần thông. Tam-muội dịch là chánh thọ (chánh định). Tâm tam-muội là tâm trụ trong chánh định, cùng với pháp chánh định đồng hay khác.

Thế nào gọi là tàng?

Thế nào ý và thức?

Thế nào sanh cùng diệt?

Thế nào thấy rồi hoàn?

Thế nào là chủng tánh?

Phi chủng và tâm lượng?

Thế nào kiến lập tướng?

Và cùng nghĩa phi ngã?

Thế nào không chúng sanh?

Thế nào thế tục thuyết?

Tàng là tàng thức. Ý là thức thứ bảy. Thức là thức thứ sáu và năm thức trước.

Kinh này nói tàng, ý và thức chia làm ba. Kinh Hoa Nghiêm thì gọi là tâm, ý, thức. Bởi vì trong đó giải thích chữ Tâm là tích tụ, tích tụ có nghĩa là tàng. Ý là tư lương, thức là phân biệt. Tích tụ là chứa nhóm các chủng tử, tư lương tức là suy lường ở trong, thức là phân biệt, chia ra ba thứ như vậy.

Sanh diệt là các căn thức hiện ra sanh diệt. Thấy là thấy được cái sanh diệt. Hoàn là trở lại cái không thấy. Đồng một tâm này mà có riêng biệt là tàng, ý và thức.

Như vậy nguyên là một tâm thôi mà phân ra có tàng, ý và thức.

Rồi có khác là thấy sanh diệt và thấy chẳng sanh diệt.

Thấy bên đây sanh diệt, bên kia hết sanh diệt. Bên sanh diệt gọi là phàm phu, bên chẳng sanh diệt gọi là thánh nhân.

Cái mê ngộ hư vọng này thảy đều không thể có. Chủng tánh là tam thừa chủng tánh. Phi chủng là không có chủng tánh, chỉ cho ngoại đạo và chúng xiển-đề.

Tam thừa chủng tánh là chủng tánh Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Chúng ta có chủng tánh nào không? Có chủng tánh Thanh văn, Bồ-tát đầy đủ. Khi thọ Tỳ-kheo giới là thuộc về chủng tánh Thanh văn, thọ Bồ-tát giới là thuộc về chủng tánh Bồ-tát. Thọ giới là gieo hạt giống, là đã có tánh rồi. Đâu phải không có, đâu có lọt sổ mà nghi ngờ. Nếu phi chủng tánh là ngoại đạo hoặc là chúng xiển-đề.

Tâm lượng là đồng một tâm mà mỗi cái có chừng lượng vậy. Kiến lập tướng là tướng ngã. Nghĩa phi ngã là tướng vô ngã. Chúng sanh là nói khác của tướng ngã. Tức là đối với ngã và pháp vốn không có chúng sanh, mà đối với thế tục nói có đó là sao?

Nói rằng ngã và pháp vốn không có chúng sanh, điều này dễ hiểu không? Ngã là thân này, pháp là sự vật vốn không có chúng sanh, mà đối thế tục nói là có. Bởi vì khi nhìn bằng con mắt trí tuệ của La-hán, Bồ-tát thì thấy ngã là thân năm uẩn không thật, thân năm uẩn không thật thì cái gì hiện chúng sanh? Pháp cũng là pháp tứ đại không thật. Ngã pháp không thật nhưng với con mắt thế tục thì tạm nói nó là chúng sanh. Chúng sanh còn tạm nói huống nữa là tên A tên B. Tên A tên B thật hay giả? Vậy mà ai kêu tên mình nói câu gì nặng nề thì biết! Cho là mình thật người thật mới sanh chuyện, nếu là giả thì đâu có sanh chuyện. Chúng ta vì mê lầm lâu đời, cái không thật mà cứ ngỡ rằng thật nên cố chấp.

Thế nào là đoạn kiến

Và thường kiến chẳng sanh?

Tại sao Phật, ngoại đạo

Tướng đó chẳng trái nhau?

Thế nào đời sau này

Có các thứ bộ khác?

Thế nào không, tại sao?

Thế nào hoại sát-na?

Đoạn và thường đều là tà kiến của ngoại đạo.

Nhìn theo đoạn kiến, thường kiến đều là ngoại đạo. Kiểm điểm lại trên thế gian này người ta không thấu được lẽ thật vì chỉ nhìn một bên. Như thân này nói hoặc là chết rồi hết, hoặc là chết rồi linh hồn còn mãi. Chỉ có hai cái nhìn, không khác. Như vậy đều thuộc về đoạn kiến hay thường kiến.

Kiến chẳng sanh là chẳng sanh hai kiến chấp này, tức là chánh pháp Như Lai.

Nếu mình thấy không có hai cái đối đãi là còn mãi hoặc mất hết, thì đó là chánh pháp của Phật.

Phật cùng ngoại đạo tướng chẳng trái nhau, là gồm vào một tâm bình đẳng mà nói vậy.

Tại sao Phật và ngoại đạo không trái nhau? Bởi vì Phật và ngoại đạo cũng là tâm bình đẳng như nhau, vì mê lầm chấp nên gọi là ngoại đạo, giác ngộ thì gọi đó là Phật.

Bộ khác, là sau khi Phật diệt độ, đệ tử kết tập kinh bộ mỗi phần có khác. Nói một tâm bình đẳng, Phật cùng ngoại đạo không khác, mà đệ tử trong pháp của Phật trở lại thấy có khác, là sao?

Nghĩa là giữa Phật và ngoại đạo còn thấy bình đẳng không khác, tại sao giữa đệ tử Phật với nhau lại thấy khác? Đệ tử Phật cách nhìn khác nhau nên chia ra bộ phái.

Không là các pháp tánh không. Hiện thấy các pháp mà nói không đó là sao? Sát-na là niệm rất vi tế. Niệm niệm chẳng dừng, sát-na chẳng trụ, không phải chỗ biết của người vô trí.

Sát-na là niệm hết sức tế nhị, hết sức nhỏ nhiệm. Nói thân này sanh diệt từng sát-na mà mình không thấy. Như cái đồng hồ có thể dễ thấy là mấy giờ, là bao nhiêu phút, còn quá cái đó nữa thì không thấy. Kim đồng hồ đâu phải nhảy một cái là một phút, trước đó nó đã qua bao nhiêu cái tích tắc rồi mới đến phút, giờ. Trong cái xê dịch đó mình chỉ thấy cái thô mà không thấy cái tế. Cũng như vậy, trong con người mình chỉ thấy già từ một năm hoặc gần lắm là một tháng. Ít ai dám nói ngày hôm nay già hơn ngày hôm qua. Chính qua một năm rồi thấy mình vẫn còn trẻ như năm nào. Đó là cái nhìn không tế nhị. Cứ đinh ninh mình như cũ mà không ngờ nó đã mòn từng sát-na, nó giảm, nó tiêu ma đi mà mình có hay đâu. Do đó nói không phải chỗ biết của người vô trí.

Thế nào thai tàng sanh?

Thế nào thế bất động?

Nhân gì như huyễn mộng

Và thành càn-thát-bà

Thế gian thấy sóng nắng

Cùng bóng trăng đáy nước?

Bởi đâu nói giác chi

Và cùng bồ-đề phần?

Thế nào quốc độ loạn?

Thế nào khởi thấy có?

Thai tàng sanh là thân phần đoạn sanh tử của chúng sanh.

Chúng ta mang thân này gọi là thân phần đoạn sanh tử, tức là thân sanh tử trải qua từng giai đoạn.

Thế bất động là cõi nước hằng dời đổi mà chân tánh vẫn thường trụ.

Cõi nước đổi thay luôn luôn mà chân tánh thì không đổi thay cho nên thường trụ.

Huyễn, mộng, thành càn-thát-bà, sóng nắng, trăng đáy nước, thảy đều dụ cho chúng sanh cùng thế giới không thật.

Huyễn, mộng, thành càn-thát-bà, sóng nắng, trăng đáy nước là năm thí dụ. Trong đó thành càn-thát-bà khó biết. Có chỗ giải thích rằng những người đi biển sáng sớm nhìn ra xa thấy chỗ có hơi nước mờ mờ như sương khói, bỗng hiện ra thành phố có người lui tới lăng xăng. Khi tàu chạy đến gần thì mất không thấy nữa, chỉ thấy xa khi chưa tới, tới thì không thấy, gọi là thành càn-thát-bà.

Tôi nói thí dụ khác, như đang đi trên tàu, khi mặt trời lên cao, sóng tạt qua mình nhìn thấy cái mống, cái mống đó chắc cũng giống thành càn-thát-bà. Cái mống đó tự nó không có, chẳng qua là có nước rồi ở xa có ánh nắng mặt trời chiếu lại nên mình thấy như có. Như cầu vồng trên trời, chiều mưa thấy hiển hiện. Cầu vồng không thật nhưng mình thấy nó dài lâu, còn sóng nước tạt lên thì thấy mống chợt còn chợt mất. Như vậy, con người và ngoại cảnh trên thế gian này nhà Phật thí dụ như huyễn, mộng, thành càn-thát-bà, sóng nắng, trăng đáy nước, thảy đều không thật. Khi mê mình thấy như vậy là phải với mình, nếu giác như Phật thì chừng đó thấy không phải. Những hình ảnh thí dụ này nói trắng ra thì người ta phê bình mình nhìn đời một cách yếm thế. Nhưng sự thật nó là như vậy, trên thế gian này cuối cùng giống như mộng thôi.

Nhân gì như, ấy là chúng sanh sanh tử thế giới đổi dời, rõ ràng hiện tiền, mà nói như mộng huyễn... ai sẽ giác biết?

Thấy chúng sanh thế giới hiện tiền mà nói như mộng, như huyễn, ai biết điều đó? Chỗ này tôi nói cho tất cả để ý. Nhiều khi chúng ta học Phật mà không biết cái giác của đạo Phật. Chúng ta tu muốn giác ngộ, mơ ước hôm nào đó mình bừng sáng, chừng đó thấy suốt hết tam thiên đại thiên thế giới. Đó là giác ngộ phải không? Sự thật ở đây giác ngộ là khác với mê. Khi tu nhận ra nơi mình có cái chân thật chưa từng sanh, chưa từng diệt, rồi nhìn lại thấy thân này, cảnh này sanh diệt tạm bợ, như huyễn như hóa, đó là giác ngộ. Hồi xưa cho vọng tưởng là tâm mình, bây giờ biết nó là vọng tưởng, đó là giác. Bởi biết vọng không theo nên cái mê tan nát. Hồi xưa mình nhận nó là tâm mình, bây giờ dám nói nó là vọng tưởng, vì sao? Bởi biết có cái tâm thường hằng ở sáu căn, chưa từng sanh, chưa từng diệt. Còn cái tâm kia sanh diệt, chợt có chợt không mới nói là vọng tưởng. Biết mình có cái thật, thấy cái giả không theo. Biết thật, biết giả, đó là giác.

Chúng ta mới giác một phần nhỏ, chưa được như ngài A-nan thấy tánh giác trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhìn lại thân này như hòn bọt ngoài biển. Nhưng cái nhân sanh diệt đã biết, đó là căn bản. Đôi lúc tự khi mình, không biết tu có tiến không? Việc tu hành tiến từ bước đầu, từ chỗ học chỗ tu từ từ nhận ra, mình có cái thật rồi thì cái nào giả cũng biết. Biết giả nhưng chưa hết, biết giả không theo thì nghiệp giảm. Thí dụ như mình dấy niệm muốn đi chơi, nếu đứng dậy đi liền, hoặc nói với người này người kia mình đi chơi thì cái đó thành nghiệp. Bây giờ dấy niệm muốn đi chơi, mình biết là vọng tưởng buông liền, không đi đâu cứ ngồi một chỗ. Như vậy có niệm mà không thành nghiệp, có dấy ra ngôn ngữ hành động mới thành nghiệp. Lục Tổ nói: Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. Niệm khởi mà giác thì không thành nghiệp, không thành nghiệp là mình đã tiến rồi. Đứng về phương diện giải thoát mình đã dừng bớt được nghiệp rồi.

Giác chi, bồ-đề đều chỉ cho chánh trí, tức là giác ngộ thế gian mộng huyễn.

Trí tuệ chân chánh là trí biết thế gian như mộng huyễn. Tôi đưa ra mấy nguyên tắc để nhắc nhở. Thứ nhất, phàm cái gì có tướng đều vô thường, có động thì sanh diệt, điều này phải nhớ rõ. Thứ hai, cái hay thấy thì không có tướng, không phải vô thường, không động nên không sanh diệt. Trong hai điều này, chúng ta có cái thường không sanh diệt mà không chịu nhớ, chỉ chạy theo tướng giả dối bên ngoài. Nếu biết rõ ngay nơi mình, tự chiêm nghiệm thấy rõ không nghi ngờ, thì đó là trí tuệ chân chánh, không còn đuổi theo niệm vô thường sanh diệt, tự chuốc lấy luân hồi.

Quốc độ loạn là quốc độ dời đổi. Khởi thấy có, là quốc độ dời đổi mà chúng sanh vô trí vọng thấy thật có. Sao mà giác mê xa nhau lắm vậy?

Quốc độ dời đổi là vô thường mà chúng sanh lại thấy thật có. Người giác thấy như huyễn, người mê thấy thật, thật là xa nhau quá. Chúng ta thuộc về giác hay mê? Một ngày mười hai tiếng thì giác được hai tiếng, còn mười tiếng thì mê, nên gọi là như bệnh rét cách nhật.

Thế nào chẳng sanh diệt?

Thế như hoa trong không?

Thế nào giác thế gian?

Thế nào nói lìa tự (văn tự)?

Lìa vọng tưởng là ai?

Thế nào ví hư không?

Có mấy thứ như thật?

Mấy tâm ba-la-mật?

Nhân đâu qua các địa?

Ai đến không chỗ thọ?

Chẳng sanh diệt, hoa trong không, đều chỉ thế gian mà nói. Thế gian vốn chẳng sanh diệt mà dối thấy sanh diệt. Vốn như hoa trong không mà dối thấy thật có.

Hoa đốm trong hư không không có sanh diệt. Như bầu trời trống rỗng nắng chói chang, chúng ta lấy tay dụi mắt rồi nhìn ra chỗ nắng thấy có từng đốm chập chờn. Người lòa mắt nói hoa đốm sanh, người không dụi mắt không thấy hoa đốm, vậy nó có diệt không? Thật ra hoa đốm không có sanh diệt, vốn tự con mắt chóa lòa mà ra. Như vậy thấy hoa đốm chẳng qua là giả dối, mà giả dối thì đâu có sanh diệt.

Thế là phải đợi đến khi giác ngộ mới thấy. Giác thế gian, là giác thế gian này chẳng sanh diệt như hoa trong không. Đã giác thế gian liền rõ như huyễn, chẳng rơi vào có không, không phải nói năng có thể đến, nên nói lìa văn tự.

Nói năng là ngôn ngữ thế gian, chỗ bậc giác ngộ thấy được thì nói năng không thể đến nên nói lìa văn tự.

Nói năng đã lìa thì phân biệt liền dứt. Tất cả pháp ví như hư không, thấy cội gốc thật tướng được đến bờ kia. Trải khắp các địa đến nơi vô thọ. Đây có thể thứ lớp chứng biết, mà vì muốn Thế Tôn hiển bày rành rẽ. Có mấy thứ như thật, là chứng được chân như hàng tam thừa có mấy hạng sai biệt. Mấy tâm ba-la-mật, là được qua sanh tử cũng phân có tam thừa.

Tuy là cùng qua sanh tử mà vẫn chia ra có tam thừa.

Những gì hai vô ngã?

Thế nào tịnh sở tri?

Các trí có mấy thứ?

Mấy thứ giới chúng sanh?

Ai sanh các tánh báu,

Chân châu ma-ni thảy?

Ai sanh các ngữ ngôn?

Chúng sanh các thứ tánh?

Trong hai thứ vô ngã, pháp vô ngã rất vi tế, nên lặp lại nói sở tri.

Chấp nhân ngã gọi là phiền não chướng, thấy nhân vô ngã thì phá được phiền não chướng. Chấp pháp ngã là sở tri chướng, thấy pháp vô ngã thì phá được sở tri chướng. Sở tri chướng vi tế khó phá. Hàng phàm phu có học hỏi chút ít thì chấp vào cái học hỏi của mình, đó thuộc về sở tri chướng cạn, có thể bỏ được. Các bậc Thanh văn thấy Niết-bàn là an tịnh, thấy sanh tử là khổ đau, rồi an trụ mãi trong Niết-bàn không bỏ được, đó cũng là sở tri chướng, thâm sâu khó bỏ.

Sở tri là sở tri chướng, thuộc về pháp chấp. Trí có căn bản trí, sai biệt trí. Giới có giới Tỳ-kheo, giới Bồ-tát. Ma-ni là tánh báu thuộc khí thế gian (thế giới). Ngữ ngôn là chủng tánh thuộc về chúng sanh thế gian (chúng sanh). Trong lời hỏi, hoặc hỏi khí thế gian, hoặc hỏi chúng sanh thế gian, hoặc hỏi xuất thế gian, hoặc Phật, hoặc đệ tử Phật, hoặc ngu, hoặc ngoại đạo, trước sau không nhất định, một lúc lẫn lộn chẳng cần chia loại, chỉ tùy lời nói nhận được nghĩa thôi. Cần biết thảy từ một chân pháp giới, vọng thấy có sai biệt, như huyễn không thể nghĩ bàn.

Các câu hỏi của ngài Đại Huệ không chia từng phần, từng loại riêng biệt. Ý muốn nói rằng một khi mê thì mọi pháp đồng hiện tiền, không đợi cái này có trước cái kia có sau. Vì vậy nên không hỏi theo thứ tự.

Minh xứ và kỹ thuật

Người nào đã hiển bày?

Già-đà có mấy thứ,

Trường tụng và đoản cú?

Có mấy thứ lý luận?

Thế nào gọi là luận?

Tại sao sanh ăn uống?

Và sanh các ái dục?

Thế nào gọi là vua

Chuyển luân và tiểu vương?

Thế nào thủ hộ quốc

Chư thiên có mấy thứ?

Thế nào gọi đại địa

Tinh tú và nhật nguyệt?

Người tu hành giải thoát

Mỗi bậc có mấy thứ?

Đệ tử có mấy thứ?

Sao là A-xà-lê?

Phật lại có mấy bậc?

Lại có mấy bản sanh?

Minh xứ là ngũ minh:

1/ Thanh minh

Thanh minh là ngoại ngữ. Học biết những ngoại ngữ để cho việc truyền bá được rộng rãi.

2/ Công xảo minh

Tức là nghề nghiệp khéo léo.

3/ Y phương minh

Là giỏi về thuốc để làm thầy trị bệnh.

4/ Nhân minh là khảo đính tà chánh

Như trước nói Nhân minh có chia ra tam chi là tông, nhân, dụ. Nhân minh là môn học lý luận để khảo xét phân biệt điều nào đúng, điều nào sai. Đúng là hợp chánh lý, sai là tà lý.

5/ Nội minh nói rành rẽ về năm thừa.

Người tu phải thông thuộc năm thừa Phật giáo. Năm thừa là Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa. Thí dụ có người hỏi tôi tu vậy mà không biết chết về đâu. Mình hỏi lại Phật tử hàng ngày tu cách nào. Nếu người đó chỉ giữ tròn năm giới, khi chết nhất định sanh về cõi người. Năm giới là nhân, sanh cõi người là quả. Nếu người tu thập thiện, mười điều lành giữ đầy đủ thì biết người đó khi chết sanh cõi trời. Còn người nào chưa biết tu, sát sanh trộm cắp gì cũng có hết, thì biết người đó khi chết không rớt xuống địa ngục thì cũng vào ngạ quỷ, không ngạ quỷ thì súc sanh. Chúng ta nắm vững những điều Phật dạy trong năm thừa, biết nhân quả để hướng dẫn Phật tử. Nếu người không thích nhập Niết-bàn, không thích giải thoát, muốn đời sau làm người hiền lành sung sướng, thì mình dạy tu ra sao? Cứ răn ngũ giới giữ cho kỹ, thêm nữa ba nghiệp đừng tạo ác. Như vậy là đủ trở lại làm người. Hiểu rành nội minh thì giáo hóa không trở ngại, khi gặp người hỏi cũng biết trả lời.

Ba minh trước là ngoại luận.

Ba minh trước là Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh.

Hai minh sau thuộc nội luận (nội điển).

Tức là Nhân minh và Nội minh. Nhờ Nhân minh nên lý luận sắc bén, phân biệt tà chánh, nhờ Nội minh truyền bá chỉ dạy cho người hiểu kinh điển. Hai cái đó thuộc nội luận.

Già-đà dịch là kệ. Trường tụng đoản cú đều là kinh nói. Lý là lý nói ra. Luận là riêng giải thích nội điển và ngoại điển. Đây là hỏi nói pháp phải có bao nhiêu thứ. Ăn uống, ái dục, vua, chư thiên, đại địa, tinh tú, nhật, nguyệt, tổng hỏi về danh tướng hai thứ thế gian chúng sanh và thế giới. Tu hành, đệ tử, Xà-lê, Phật, bản sanh là danh tướng sai biệt của xuất thế gian. Tu hành là thông tam thừa. Đệ tử là gồm Bồ-tát và Thanh văn. Xà-lê dịch là quỹ phạm (mẫu mực). Có năm thứ quỹ phạm. Bản sanh là Như Lai nhiều đời tu hành cho đến thành Phật, những việc hiện sanh.

Bản sanh là Phật nói lại việc của ngài tu trong nhiều đời trước. Còn Bản sự nói về nhân duyên của Phật và các đệ tử ở đời quá khứ.

Ma và các ngoại đạo

Kia mỗi loại mấy thứ?

Tự tánh và cùng tâm 

Mỗi cái bao nhiêu thứ?

Thế nào thi thiết lượng?

Cúi mong Tối thắng nói 

Thế nào không, gió, mây?

Thế nào niệm thông minh?

Thế nào là rừng cây?

Thế nào là cỏ rậm?

Thế nào voi, ngựa, nai?

Thế nào là bắt lấy?

Thế nào là thấp hèn?

Nhân gì mà thấp hèn?

Thế nào nhiếp lục tiết?

Thế nào nhất-xiển-đề?

Nam nữ và hoàng môn

Đây đều nhân đâu sanh?

Những câu này rất tầm thường, hỏi chuyện thế gian.

Tánh cùng tâm đều chỉ cho căn dục của chúng sanh. Thi thiết lượng là tâm tánh chừng lượng giả vì thi thiết. Niệm thông minh là thế trí biện thông.

Dùng trí thế gian mà biện biệt rành rẽ là thế trí biện thông.

Nhiếp lục tiết là ở Tây vức cho hai tháng làm một tiết, một năm phân làm sáu tiết. Nhất-xiển dịch là tín. Đề dịch là bất cụ. Nghĩa là lòng tin chẳng đủ. Đây cũng là hỏi danh tướng sai biệt của chúng sanh và khí thế gian.

Nhất-xiển-đề là hạng người lòng tin không đủ, không tin Phật pháp, không tin nơi mình.

Thế nào tu hành thối?

Thế nào tu hành sanh?

Thiền sư dùng pháp gì?

Kiến lập những người nào?

Chúng sanh sanh các cõi

Tướng gì và loại gì?

Tu hành có tiến có thối. Sanh tức là tiến.

Khi nào gọi là tu hành tiến, khi nào tu hành thối? Khi chúng ta ngồi tu trong nửa giờ, một giờ mà tâm thanh thản nhẹ nhàng, ít vọng tưởng điên đảo, xả thiền ra nghe thân tâm mình an lạc. Hàng ngày trong cuộc sống mình vẫn bình dị, không lao chao, không nghĩ vơ vẩn. Đó là tu hành tiến. Khi nào ngồi thiền mà vọng tưởng điên đảo liên miên kềm không nổi, hoặc nghe đau nhức chịu cũng không nổi, gục lên gục xuống, khi xả thiền thì mù mờ không biết gì cả. Vì không có niềm vui nên người lừ đừ chán nản. Đó là tu hành thối. Như vậy mình tự kiểm nghiệm cũng biết mình lúc nào tiến, lúc nào thối.

Pháp của thiền có đốn tiệm chẳng đồng. Bởi căn cơ người lớn nhỏ chẳng phải một.

Vì căn cơ có bậc thượng bậc hạ, hoặc lớn hoặc nhỏ cho nên pháp có chia ra đốn tiệm.

Đây là sự sai biệt của xuất thế gian. Các cõi là sáu đạo và bốn sanh.

Sáu đạo là: trời, người, a-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Bốn sanh là: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh.

Tướng loại là tướng loại của các cõi. Chúng sanh thế gian huyễn vọng tự chia nhiều lối.

Thế nào là tài phú?

Nhân gì được tài phú?

Thế nào là Thích chủng?

Nhân gì có Thích chủng?

Thế nào dòng Cam Giá?

Vô thượng tôn, xin nói.

Thế nào trường khổ tiên?

Kia dạy bảo những gì?

Như Lai tại vì sao, 

Hiện tất cả thời, cõi, 

Các thứ loại danh sắc, 

Tối thắng tử vây quanh?

Tại sao chẳng ăn thịt?

Tại sao cấm ăn thịt?

Ăn thịt bao chủng loại?

Nhân gì nên ăn thịt?

Đây vẫn hỏi sự sai biệt của thế gian và xuất thế gian. Thích chủng, dòng Cam Giá. Bởi quá khứ rất xa, khi ấy có một Bồ-tát làm thái tử trong nước, nhường ngôi cho em đi tu, theo học với Cù-đàm Bà-la-môn liền đổi họ làm Cù-đàm.

Sau trở về ngoài thành ở tinh xá tại vườn Cam Giá, bị nạn giặc bắt làm thương tổn, máu chảy đầy đất. Đại Củ-đàm dùng thiên nhãn xem thấy, dùng thần túc đến vườn Cam Giá, lấy máu đựng trong hai cái bình để bên phải bên trái. Chúc rằng: Đạo sĩ này nếu tâm chí thành sẽ khiến máu biến thành người. Mười tháng sau, hai cái bình đựng máu một biến thành người nam, một biến thành nữ, bèn thành dòng Cam Giá.

Câu chuyện có vẻ huyền bí, không khác gì chuyện con Rồng cháu Tiên của người Việt Nam. Hồi xưa, những nguồn gốc gia tộc phát xuất có vẻ huyền bí như vậy.

Về sau thứ phi vua Ý-ma sanh bốn con được chánh hậu khen ngợi. Vua đuổi bốn con ra khỏi nước ở trên núi Tuyết trong rừng Trực Thọ. Mẹ bốn vị ấy tìm đến, vì mỗi người lập gia đình cho đều được xong xuôi. Vua nghe tin này rất vui vẻ, nói rằng: “Đây thật là Thích tử, khéo tự lập tự tồn.” Nhân đó gọi là Thích. Thích dịch là năng, nghĩa là có tài năng. Người con thứ tư tên Trang Nghiêm tức là dòng giống vua Bạch Tịnh.

Thích-ca gọi là Năng Nhân, là người có tài năng. Như vậy chúng ta phải có tài năng mới xứng là con dòng họ Thích.

Tất cả thời cõi là tất cả thời, tất cả cõi, tùy loại khắp hiện.

Thế nào hình nhật nguyệt,

Tu-di và Liên Hoa?

Cõi Sư Tử thắng tướng?

Thế giới nghiêng, đứng, úp, 

Như lưới trời Đế-thích?

Hoặc thảy đều chân bảo,

Như đàn, trống lưng eo,

Dáng tợ các loại hoa, 

Hoặc lìa sáng nhật nguyệt?

Như thế thảy vô lượng?

Tu-di là núi Diệu Cao, trùm bốn thiên hạ làm một thế giới. Liên Hoa là thế giới Liên Hoa Tạng. Sư Tử là thế giới đẹp nhất trong các thế giới. Thế giới có cái nghiêng, có cái úp, gồm các thế giới đẹp và xấu như lưới trời Đế-thích.

Chúng ta thấy những lời trong kinh rất phù hợp với khoa học. Sau Phật sáu trăm năm người ta vẫn cho rằng trời tròn đất vuông, vậy mà vào thời Phật ngài đã thấy ngoài thế giới của mình có vô số thế giới. Có thế giới hình này, có thế giới hình kia, có thế giới xấu đẹp nhỏ lớn đủ loại... Những điều này nếu không phải là bậc thánh trí làm sao thấy được.

Vì lưới trời Đế-thích có một ngàn hạt châu, mỗi hạt châu chiếu sáng xen nhau, ý nói vô tận. Nhật nguyệt, cây đàn, trống lưng eo, hoa trái đều là diễn tả hình tướng của thế giới. Chân bảo là có thế giới do chân bảo làm thành. Lìa sáng nhật nguyệt là thế giới Vô Cấu Quang Minh, chẳng nhờ ánh sáng nhật nguyệt.

Chỗ này cho chúng ta hiểu xa hơn. Thường chúng ta chỉ hiểu rằng mỗi Thái dương hệ có một số thế giới bao quanh, các thế giới đó nhờ ánh sáng mặt trời chiếu sáng. Ở đây nói có những thế giới không có ánh sáng mặt trời chiếu đến mà nó tự sáng. Bây giờ các nhà thiên văn học bảo rằng trong vũ trụ có những khoảng tối, trong đó vẫn có các thế giới. Lìa sáng nhật nguyệt là như vậy.

Thế nào là Hóa Phật?

Thế nào Báo sanh Phật?

Thế nào Như như Phật?

Thế nào Trí tuệ Phật?

Tại sao ở Dục giới,

Chẳng thành Đẳng chánh giác?

Vì sao Sắc Cứu Cánh,

Lìa dục được Bồ-đề?

Thiện thệ vào Niết-bàn

Ai người giữ chánh pháp?

Thầy trời trụ bao lâu?

Chánh pháp trụ chừng nào?

Tất-đàn cùng với kiến 

Mỗi loại bao nhiêu thứ?

Phần Tỳ-ni Tỳ-kheo

Thế nào nhân duyên gì?

Các Tối thắng tử kia

Duyên giác và Thanh văn

Nhân gì trăm biến dịch?

Thế nào trăm vô thọ?

Hóa Phật là hóa thân trăm ngàn muôn ức, đây là tùy loại hóa hiện. Đại hóa là thân ngàn trượng Lô-xá-na vì hàng Bồ-tát Thập địa mà hiện, cũng gọi là Tha báo thân.

Báo thân Lô-xá-na Phật, tức là Phật báo thân. Phật báo thân chỉ có ở cõi trời Sắc Cứu Cánh, vì hàng Bồ-tát thập địa mà hiện thân thuyết pháp.

Như như, Trí tuệ đều chỉ cho pháp thân.

Pháp thân mang hai tính chất như như và trí tuệ. Như như là lặng lẽ, trí tuệ là sáng suốt. Lặng mà sáng, không phải lặng mà không ngơ. Tôi thường nói tánh nghe của mình lặng mà sáng, động tịnh đều nghe, nghe có tiếng, nghe không tiếng. Chỗ này cũng vậy, nói như như trí tuệ là chỉ cho pháp thân lặng lẽ mà sáng suốt.

Như như là bản giác, Trí tuệ là thủy giác.

Bản giác là tánh giác có sẵn từ trước. Thủy giác là tánh giác mới nhận. Khi chúng ta dùng trí quán chiếu để trở về với bản giác, đó gọi là thủy giác.

Đây là tự báo, vì thủy giác bản giác hiệp một, lý và trí cả hai đều dung thông. Lô-xá-na trên cõi trời Sắc Cứu Cánh được đạo Bồ-đề, chứ không ở Dục giới.

Lô-xá-na là báo thân Phật, được đạo ở cõi trời Sắc Cứu Cánh. Đức Phật Thích-ca ở Ấn Độ là ứng thân. Ba thân Phật, pháp thân thì không tướng, báo thân thì có tướng nên trang nghiêm ở cõi trời Sắc Cứu Cánh. Thân Lô-xá-na còn gọi là viên mãn báo thân. Còn ứng thân Phật ở cõi này giáo hóa vì vậy thân nhỏ xấu, không bằng thân Lô-xá-na.

Đó là vì thị hiện lìa dục được thanh tịnh. Ai người giữ chánh pháp là những căn dục nào mới kham truyền giữ chánh pháp. Chư Phật ở đời, chánh pháp ở đời mỗi phần đều có nhân duyên gần xa và tự tha. Tất là khắp. Đàn là thí.

Tất-đàn là tiếng Phạn, dịch nghĩa là khắp thí hay là bố thí khắp hết.

Kiến là chỉ căn cơ bị giáo hóa. Nghĩa là Như Lai đem giáo pháp khắp thí cho các căn cơ chúng sanh kia, cộng lại có bốn thứ:

1/ Thế giới tất-đàn là được lợi ích hoan hỷ.

Thế giới tất-đàn tức là khắp thí cho mọi người đều được lợi lạc hoan hỷ.

2/ Đối trị tất-đàn là được lợi ích diệt ác.

Bố thí làm lợi ích thì dễ hiểu, Đối trị tất-đàn này là lợi ích diệt ác. Thí dụ như ở đây nhiều ăn trộm, mình đua nhau học võ để đối trị. Nếu cứ để cho ăn trộm vào lấy đồ thì họ tăng trưởng lòng tham không có giới hạn, hôm nay lấy chỗ này, mai lấy chỗ kia, càng lấy nhiều thì càng xài lớn, càng tạo tội to. Bây giờ mình có phương tiện chặn lại, không cho ăn trộm tạo tội, tức là được lợi ích diệt ác, giúp cho họ giảm tội. Đó gọi là Đối trị tất-đàn.

3/ Vị nhân tất-đàn là được lợi ích sanh các pháp lành.

Vị nhân tất-đàn tức là vì người mà giúp ích cho họ được pháp lành.

4/ Đệ nhất nghĩa tất-đàn là được lợi ích ngộ lý.

Tức là mình đem chánh pháp giải thích cho họ thấu suốt được nghĩa cứu cánh, đó gọi là lợi ích ngộ lý.

Tỳ-ni dịch là luật, Tỳ-kheo là người trì luật. Nhân duyên là nhân duyên kiết giới. Trăm biến dịch, trăm vô thọ, đây là nói sự sai biệt của Bồ-tát, Duyên giác và Thanh văn. Biến dịch là biến dịch sanh tử, vì chưa đến quả vị Phật vẫn còn ở phương tiện đổi thân thô thành thân diệu.

Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát khi chưa thành Phật thì luôn luôn tu, chuyển từ thân xấu, ít phước, dần dần thành ra thân tốt, thân có nhiều phước cho đến thành Phật.

Vô thọ là vô dư Niết-bàn, người hàng tam thừa đều chứng.

Chúng ta phải hiểu rõ, có khi nói vô dư Niết-bàn, có khi nói vô thọ.

Thế nào thế tục thông?

Thế nào xuất thế gian?

Thế nào là Thất địa?

Cúi mong vì diễn nói.

Tăng-già có mấy loại?

Thế nào là hoại tăng?

Thế nào luận y phương?

Ấy lại nhân duyên gì?

Bậc Bồ-tát Ngũ địa vào thế tục lợi sanh gọi là thế gian thông. Đến hàng Thất địa nhân sanh đều hết mới gọi là xuất thế.

Bồ-tát Ngũ địa vào trong thế tục làm lợi ích cho chúng sanh, đó gọi là thế gian thông.

Tăng có Đại thừa và Nhị thừa. Hoại tăng là phá luật phá kiến vậy.

Phá luật là thí dụ như mình giữ mười giới, trong đó có giới không nói dối, mà mình lại nói dối, đó là phá luật. Phá kiến là như trong kinh Lăng-nghiêm có Tỳ-kheo-ni Bửu Liên Hương nói dâm dục không phải sát sanh nên không phải là tội, đó gọi là phá kiến. Vì phá kiến nên ngay đời này bị đọa địa ngục. Phá kiến tội nặng hơn phá giới. Tại sao? Như bây giờ có nhiều người lý luận: uống rượu không có tội! Rượu làm bằng nếp, men cũng là không phải thịt chúng sanh, nếp với men nấu thành nước. Nước không hại ai, như vậy đâu có tội, mà nói uống rượu phạm giới! Mình tuyên bố uống rượu không tội, đó là phá kiến. Người ta thấy là đúng nhưng Phật dạy là hại, mình nói ngược lại không hại để người ta tạo tội thì đó gọi là phá kiến.

Phật dụ lương y, để nói Như Lai tùy duyên hóa hiện, hợp bệnh cho thuốc, như lương y thế gian.

Cớ gì đại Mâu-ni

Nói lên như thế này:

Ca-diếp, Câu-lưu-tôn,

Câu-na-hàm là ta?

Cớ sao nói đoạn thường 

Và cùng ngã vô ngã?

Sao không tất cả thời 

Diễn nói nghĩa chân thật 

Mà lại vì chúng sanh 

Phân biệt nói tâm lượng?

Nhân đâu rừng nam nữ 

Ha-lê, a-ma-lặc, 

Kê-la và Thiết Vi, 

Kim Cang thảy các núi 

Vô lượng bảo trang nghiêm

Tiên Đạt-bà đầy dẫy?

Ca-diếp tức là Phật Ca-diếp, Câu-lưu-tôn tức là Phật Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm tức là Phật Câu-na-hàm.

Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta, nghĩa là xưa nay tự tha không có tướng một hai, đó là lời nói chân thật.

Phật Ca-diếp, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm và Phật Thích-ca, tuy nói bốn đức Phật khác nhau nhưng chỗ chứng của các ngài không hai, không khác. Vì thế nói rằng đó là lời nói chân thật.

Mà lại nói thường nói đoạn, nói ngã nói vô ngã, rộng vì chúng sanh phân biệt nói tâm lượng, đều vì căn có đại tiểu, pháp có tà chánh.

Sở dĩ chia ra có ngã có vô ngã... đó là vì tùy theo căn lượng của chúng sanh mà chia chẻ phân biệt để giảng cho họ hiểu.

Đoạn, thường, ngã đều chỉ cho ngoại đạo.

Ngoại đạo chấp thường, ngoại đạo chấp đoạn, ngoại đạo chấp ngã, chúng ta tu theo Phật còn ba cái chấp đó không? Giả sử không chấp đoạn, không chấp thường nhưng còn ngã bỏ chưa nổi. Bởi vậy cho nên cũng còn thuộc ngoại đạo, Phật giáo ngoại đạo.

Vô ngã chỉ cho Nhị thừa. Rừng nam nữ tức là rừng Thi-đà. Rừng này cây sanh trái dáng giống như nam nữ. Ha-lê, a-ma-lặc là tên hai thứ trái cây. Đây tức là cây trái hiện tiền. Suy ra đến các núi Kê-la, Thiết Vi, Kim Cang có vô lượng trang nghiêm, tất cả tiên thần đều đầy dẫy trong ấy. Tột trong chỗ thấy nghe và ngoài chỗ thấy nghe do nhân gì mà có, trọn gọi là gì? Chỗ này không thể dùng tâm ý mà hiểu được. Mới biết một trăm lẻ tám câu cùng tột thế gian và xuất thế. Song chẳng ngoài năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã.

Như vậy nói một trăm lẻ tám câu nhưng không ngoài năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã.

Bỗng nhiên gõ thẳng cửa chân.

Nghĩa là khi thấy tất cả pháp từ bất giác khởi lên, đó là đi thẳng vào cửa chân thật.

Bất chợt chỉ điểm tục đế dường như không thứ lớp, đều tự tâm hiện ra.

Tục đế tức là các pháp thế tục không có thứ lớp đều do tâm mê mà hiện ra.

Cảnh giới như huyễn bất tư nghì không có cạn sâu thì đâu phân khó dễ, chỉ chứng mới biết.

Chỗ này chỉ tu chứng mới biết, rất khó phân biệt. Chỗ đó không cho chúng ta suy nghĩ, vì suy nghĩ là đối đãi của thế gian.

B. ĐÁP CHỈ THẲNG PHI CÚ (Phân làm hai phần)

I- LẶP LẠI

Bậc Vô thượng Thế Gian Giải nghe Bồ-tát Đại Huệ nói kệ hỏi, Đại thừa các độ môn, chư Phật tâm là bậc nhất, liền khen: Lành thay, lành thay! Đại Huệ khéo lắng nghe, nay ta sẽ thứ lớp như lời ông đã hỏi mà đáp.

Tựa kinh dùng một trăm lẻ tám câu hỏi là Đại thừa độ môn, là Phật tâm bậc nhất, nghĩa là cảnh giới tự giác của chư Phật chẳng ngoài tự tâm hiện ra.

Trong nhà Phật thường dùng con số một trăm lẻ tám để bao gồm cả thân, tâm, cảnh giới. Nên nói rằng một trăm lẻ tám câu là diễn tả tất cả pháp đều tự tâm hiện, không một pháp nào ngoài tâm.

Thế gian và xuất thế gian, tất cả các pháp mê là danh tướng, ngộ thì như như.

Các pháp không cố định là mê hay ngộ, tùy theo tâm mê ngộ của chúng sanh mà đánh giá. Như trên một pháp mà theo hình tướng rồi đặt tên, phân biệt trên danh tướng không thôi nên thấy danh ấy tướng ấy là thật. Vì chấp thật nên khởi vọng tưởng điên đảo, đó gọi là mê. Nếu biết danh chỉ là giả danh, tướng là giả tướng thì mọi điên đảo ngừng. Theo chánh trí thì muôn pháp đều trở về như. Đó là khi ngộ, không cần dẹp phiền não mà vẫn tự an. Chúng ta tu là trốn tất cả pháp để được như như, hay đối diện với tất cả pháp mà vẫn được như như? Mình che mắt đừng thấy gì để cho tâm như như được không? Ban đêm ngồi thiền thấy rất hạn chế mà tâm còn chưa như như, huống nữa là trong các trường hợp khác. Bởi vậy nên biết ngay nơi cảnh mà mê thì là vọng tưởng, ngay đó mà ngộ thì như như, không phải đuổi, không phải trốn, không phải tìm nơi nào khác.

Cho nên chỗ hỏi đã đầy đủ ý đáp, do thấy cơ cảm cấu hợp, không còn có ý chỉ khác. Từ đây về sau lặp lại lời hỏi, nhiên hậu mới hiển bày kiến lập. Chỉ có lời lặp lại lược có đổi thay để thầm bày mật chỉ, không thể chẳng xét kỹ.

Phật chỉ lặp lại lời hỏi, trong đó có đổi thay chút ít để ngầm chỉ ý nghĩa thâm sâu mà ngài muốn dạy.

Sanh và cùng chẳng sanh, Niết-bàn, không sát-na, tiến đến không tự tánh.

Đây là đổi lời hỏi, trước lấy hai pháp sanh cùng chẳng sanh, gồm hết ý hỏi, bèn kèm thêm rằng cứu cánh không có tự tánh, chính đã thầm bày mật chỉ vậy.

Nói rằng gồm hết sanh và chẳng sanh, cứu cánh hai cái đó đều không có tự tánh.

Niết-bàn thuộc nghĩa chẳng sanh; sát-na là nói thức lưu chú vi tế, thuộc nghĩa sanh. Mà nói không sát-na chính chỉ thức này niệm niệm chẳng dừng tiếp nối dường như sanh mà chẳng phải thật có sanh. Chẳng sanh là đối sanh mà nói. Nếu không có nghĩa sanh thì chẳng sanh không do đâu hiển bày.

Sanh đối với chẳng sanh, chẳng sanh là nghĩa Niết-bàn. Nơi đây có Niết-bàn không? Kinh nói sanh và chẳng sanh, hai cái đó cứu cánh không có tự tánh, rốt cuộc thì có Niết-bàn không? Chúng ta tu để sống được, thâm nhập được Niết-bàn. Nếu Niết-bàn là không thì tu làm chi? Vấn đề này người học Phật không chín chắn dễ lầm lẫn. Nghe nói sanh tử không nên không sợ sanh tử. Nghe nói Niết-bàn không nên không cần Niết-bàn. Nên biết danh từ sanh tử là đối với danh từ Niết-bàn, do mình đang sanh tử nên nói có Niết-bàn, khi hết sanh tử thì Niết-bàn cũng không. Tôi thí dụ, chúng ta còn những tâm niệm, ngôn ngữ, hành động xấu, ráng tu cho hết cái xấu. Khi hết cái xấu thì gọi là tốt, không phải lúc đó hết trơn. Trong nội tâm chúng ta, khi niệm lưu chú là niệm liên tục dấy lên, gọi là sanh, niệm đó hết gọi là vô sanh, vô sanh là Niết-bàn. Tu đến lúc niệm lưu chú lặng hết, ngay đó là Niết-bàn. Bởi không có niệm lưu chú nên gọi là không sanh, không sanh là Niết-bàn. Nói sanh là đối với không sanh, hết sanh rồi thì không sanh cũng buông, nên đến đó nói là không cả cái chẳng sanh. Chỗ này kinh nói là: Nếu không có nghĩa sanh thì không sanh do đâu hiển bày. Tâm thể thanh tịnh vượt ngoài sanh và không sanh. Qua khỏi đối đãi, nên không nói tên Niết-bàn, không phải Niết-bàn là không ngơ.

Cho nên Niết-bàn, sát-na xét tột không tự tánh.

Vì nó chỉ là giả lập đối đãi.

Văn sau lặp lại lời hỏi, mỗi đoạn có chỗ hỏi, trước sau lẫn lộn. Hoặc lặp lại hoặc lược bớt, không có nhất định.

Phật, các ba-la-mật, Phật tử cùng Thanh văn, Duyên giác các ngoại đạo và cùng hành Vô sắc, các việc như thế.

Đoạn này hỏi thế nào tên vô thọ, mấy tâm ba-la-mật, cớ sao gọi Phật tử, thế nào có ba thừa, thế nào đồng ngoại đạo, thế nào định Vô sắc.

Đây là lặp lại, chưa giải thích.

Tu-di, bể cả, núi lớn, châu, đảo, cõi nước, quả đất. Tinh tú và nhật nguyệt, ngoại đạo, trời, a-tu-la; giải thoát, tự tại thông, lực, thiền, tam-ma-đề và định, như ý túc, giác chi và đạo phẩm.

Hai câu Tu-di... là hỏi Tu-di và Liên Hoa Tạng, thuộc về danh tướng tất cả cõi nước.

Nói núi Tu-di, nói Liên Hoa Tạng là chỉ cho danh tướng của các cõi nước trên thế gian.

Hai câu tinh tú... là ba câu hỏi chư thiên có mấy thứ. Bốn câu giải thoát... là hỏi nhân gì được thần thông và tự tại tam-muội, nhân gì nói giác chi và bồ-đề phần. Lực là Ngũ lực. Tam-ma-đề là tam-muội. Như ý túc là Tứ như ý túc. Giác chi là Thất giác chi. Đạo phẩm là Ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo:

- Tứ niệm xứ

- Tứ chánh cần

- Tứ như ý túc

- Ngũ căn

- Ngũ lực

- Thất bồ đề phần (có chỗ gọi là thất giác chi)

- Bát chánh đạo

1/ Tứ niệm xứ: Bốn chỗ để tâm quán sát.

a- Quán thân bất tịnh

b- Quán thọ thị khổ

c- Quán tâm vô thường

d- Quán pháp vô ngã

2/ Tứ chánh cần: Bốn việc siêng năng cần mẫn.

a- Các điều ác chưa sanh không cho sanh

b- Các điều ác đã sanh thì phải tiêu diệt

c- Các điều thiện chưa sanh thì kích động nó sanh.

d- Các điều thiện đã sanh thì làm cho tăng trưởng.

3/ Tứ như ý túc: Bốn điều đầy đủ như ý.

a- Dục như ý túc

b- Tinh tấn như ý túc

c- Niệm như ý túc

d- Định như ý túc

Có người đặt câu hỏi: Người tu Phật phải diệt dục mà sao Tứ như ý túc đứng đầu là Dục như ý túc? Như vậy dục là gì? Diệt dục là diệt cái gì? Diệt dục là diệt đam mê ngũ dục thế gian: tài, sắc, danh, thực, thùy. Còn Dục là mong muốn tu cho mau giải thoát, mong muốn làm việc thiện cứu giúp chúng sanh, Dục đó phải tăng trưởng, vì đó là điều kiện để mình vươn lên. Trong khi tu chúng ta phải thiết tha mong tiến bộ, không thể dừng một chỗ muốn ra sao thì ra. Chính cái mong muốn đó là sức mạnh đưa chúng ta đến chỗ đầy đủ sở nguyện gọi là như ý túc. Mong muốn là cái ban đầu, kế đó là cố gắng thực hành, vì vậy mà dục rồi đến tinh tấn. Tinh tấn rồi đến niệm, cái gì mình muốn làm thì phải nhớ nghĩ một cách chí quyết. Như chuyên về thiền định thì phải đem hết tâm gắn bó với pháp tu của mình, luôn luôn không rời, đó là niệm. Gắn bó với pháp tu của mình rồi sẽ đạt được như ý, vì vậy mà nói Niệm như ý túc. Chuyên chú gắn bó với pháp tu, tâm mình không lơi lỏng, đó là đi tới Định như ý túc. Chúng ta phải hiểu rõ từng phần như vậy.

4/ Ngũ căn: Năm cội gốc tu tập.

a- Tín căn

b- Tấn căn

c- Niệm căn

d- Định căn

e- Tuệ căn

Năm pháp này là gốc của đạo đức, cội gốc tu tập để đạt đến giải thoát.

5/ Ngũ lực: Năm sức mạnh vững chắc.

a- Tín lực

b- Tấn lực

c- Niệm lực

d- Định lực

e- Tuệ lực

Năm pháp này vừa là căn mà cũng vừa là lực. Nói căn là đứng về mặt cội gốc. Con đường tu hành của chúng ta vững chắc không thay đổi, không lay động giống như cái cây có gốc, gió thổi không bị ngã, không bị lay chuyển. Đứng về mặt giữ vững không lay chuyển thì năm pháp này là gốc. Năm pháp này cũng là sức mạnh để tiến lên, như gốc cây vừa giữ vững vừa đem sinh lực nuôi cây. Chất nhựa từ dưới đất, dưới nước được đưa lên nuôi thân, cành, lá, hoa quả. Sức nuôi dưỡng cho cây tươi tốt đều từ gốc mà ra. Đứng về mặt sức mạnh nuôi dưỡng thì gọi là lực, đứng về mặt giữ vững không lay chuyển thì gọi là căn.

6/ Thất giác chi: Bảy chi phần đạt giác ngộ.

a- Trạch pháp giác chi

b- Tinh tấn giác chi

c- Hỷ giác chi

d- Khinh an giác chi

e- Niệm giác chi

g- Định giác chi

h- Xả giác chi

Tôi giải thích ý nghĩa quan trọng của Trạch pháp:

Về mặt thiền định, người tu thiền trước tiên phải chọn lựa pháp thích hợp với mình để ứng dụng tu, gọi là Trạch pháp giác chi. Đó là nghĩa thứ nhất. Nghĩa thứ hai là khi tu có những hiện tượng lạ mình phải biết chọn lựa đúng hay sai để không lầm. Chọn lựa pháp tu xong chúng ta phải tinh tấn. Như ở thế gian chọn lựa nghề nghiệp rồi thì phải cố gắng thực hành. Nói chọn nghề hay chọn lựa pháp tu này, người học trò chọn mà ông thầy cũng phải có trách nhiệm chọn nữa. Trường hợp ngài A-nan có hai đệ tử yêu cầu ngài dạy tu. Người làm thợ rèn ngài dạy quán bất tịnh. Ông này quán mãi mà không kết quả. Người giữ nghĩa địa thì ngài dạy quán hơi thở, quán hoài cũng không thành công. Cuối cùng hai đệ tử trình bày rằng, Thầy dạy con tu bao lâu rồi mà không tiến được, không biết tại sao. Ngài A-nan đến bạch Phật, kể lại chuyện hai đệ tử. Phật dạy: “Người thợ rèn phải tu quán hơi thở, người giữ nghĩa địa phải tu quán bất tịnh.” Ngài nghe lời Phật trở lại chỉ dạy, ba tháng sau hai người đệ tử đều đạt đạo. Tại sao? Vì người thợ rèn cứ nghe cái lò phì phò hoài, nên quán hơi thở dễ, thở ra thở vô hợp với ống thổi lửa. Người ở nghĩa địa thấy chết liền liền nên quán bất tịnh rất dễ. Như vậy chính trong trường hợp ứng dụng đúng pháp thì có kết quả tốt, nếu ứng dụng không đúng thì không có kết quả, dễ thối bồ-đề tâm. Trạch pháp quan trọng ở bước đầu như vậy.

7/ Bát chánh đạo:

a- Chánh kiến

b- Chánh tư duy

c- Chánh ngữ

d- Chánh nghiệp

e- Chánh mạng

g- Chánh tinh tấn

h- Chánh niệm

i- Chánh định

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo thuộc về Đạo đế trong Tứ đế.

Các thiền định vô lượng, các ấm thân qua lại, chánh thọ và diệt tận định, tam-muội khởi tâm mà nói. Tâm ý và các thức, vô ngã, pháp có năm, tự tánh năng tưởng và sở tưởng, cùng hiện hai thứ kiến.

Ấm thân qua lại là hỏi chúng sanh trong các cõi. Các thiền, diệt tận và tam-muội khởi là hỏi thế nào Vô sắc định cả thảy bốn câu. Tâm ý bốn câu, gồm hỏi năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã. Trong đoạn hỏi tuy không có câu năm pháp, ba tự tánh, song liệt bày chúng sanh thế gian, khí thế gian đều là danh, tướng và vọng tưởng trong năm pháp. Tất cả các thiền giải thoát thuộc về chánh trí, như như. Lại câu “duyên khởi ly tưởng chân thật” tức là ba tự tánh. Nói ý thì đủ mà lời lẫn lộn.

Như vậy đây giải cũng rõ rồi, khỏi cần phải giải thích thêm.

Thừa và các chủng tánh, vàng bạc, ma-ni v.v... nhất-xiển-đề và đại chủng, hoang loạn và nhất Phật, trí, sở tri, đắc hướng, có hay không có.

Thừa và các chủng tánh là lặp lại câu hỏi chủng tánh tam thừa. Vàng bạc, ma-ni v.v... là hỏi cái gì sanh các tánh báu. Nhất-xiển-đề là hỏi thế nào là nhất-xiển-đề, kèm nói đại chủng do ngoại đạo chấp đại chủng là sanh nhân.

Đại chủng tức là hạt giống tứ đại. Có ngoại đạo cho rằng tứ đại là nhân sanh ra vũ trụ, con người và chúng sanh.

Hoang loạn tức là quốc độ loạn. Nhất Phật là hỏi Phật Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta. Trí, sở tri là hỏi thế nào sở tri tịnh. Đắc hướng là hỏi người tu hành giải thoát.

Người tu theo Thanh văn thì nói có đắc hướng, gọi là bốn đôi tám bậc. Đắc Tu-đà-hoàn, đắc Tư-đà-hàm, đắc A-na-hàm, đắc A-la-hán, gọi là đắc tứ quả. Hướng là chưa đến quả vị đó, gọi là hướng Tu-đà-hoàn, hướng Tư-đà-hàm, hướng A-na-hàm, hướng A-la-hán. Thí dụ như từ Thường Chiếu đi qua Linh Chiếu, mới bước ra khỏi chùa, tiến lên con đường đi qua bên kia, trong khoảng giữa đang tiến lên gọi đó là hướng. Khi tới Linh Chiếu thì gọi là đắc, đắc là tới nơi.

Chúng sanh có hay không có, là hỏi về đoạn kiến và thường kiến.

Voi ngựa và các cầm thú, làm sao mà bắt lấy, vì sao thí dụ thành tất-đàn, cùng với năng tác sở tác.

Hai câu voi ngựa là hỏi thế nào là voi ngựa nai, làm sao mà bắt lấy? Vì sao thí dụ thành tất-đàn là hỏi tất-đàn cùng với kiến? Nghĩa là Như Lai nói pháp chẳng phải ngôn ngữ đến được, phần nhiều dùng thí dụ để thông hiểu. Chỗ thí dụ mà được ngộ tức là tương ưng, bèn thành cơ cảm, nên nói là kiến. Năng tác và sở tác là hỏi thế nào năng tác sở tác.

Những đoạn này chỉ là lặp lại câu hỏi trước.

Tùng lâm mê hoặc và thông, tâm lượng chẳng hiện hữu, các địa không đến nhau, trăm biến dịch trăm vô thọ, luận y phương, công xảo, kỹ thuật các minh xứ, các núi, Tu-di, quả đất, biển cả lượng nhật nguyệt, chúng sanh bậc thượng, trung, hạ thân mỗi người có bao nhiêu vi trần.

Tùng lâm là đến chỗ thấy lúc ấy, đại khái dụ các pháp ở trước mắt.

Nói tùng lâm là chỉ cho cảnh mình đang thấy ngay trong lúc đó.

Mê hoặc là chỉ chỗ nhật dụng của bách tánh.

Mọi sự vật chúng ta thấy hàng ngày mà không thấy đúng như thật, lại thấy theo vọng tưởng nên gọi là mê hoặc.

Đây là gồm cả hữu tình và vô tình đồng ở trong nhất chân pháp giới, mà nơi tâm lượng không có chỗ hiển bày.

Tình và vô tình đồng trong nhất chân pháp giới mà tâm lượng mình không thể hiển bày ra được.

Hai câu này trong phần hỏi thì không, song vì kèm hai câu dưới nên phải lấy phàm để lệ thánh. Các địa không đến nhau, trong câu hỏi là nhân gì qua các địa. Trăm biến dịch, trăm vô thọ, trong câu hỏi là thế nào trăm biến dịch, thế nào trăm vô thọ. Nếu hay giác tự tâm lượng thì mỗi địa vốn không đến nhau, hành bố, viên dung đều không có pháp thật.

Chữ hành bố là chỉ cho thứ bậc, nghĩa là mình tiến tu từng thứ bậc, từ thứ nhất, thứ hai, thứ ba đến thứ mười. Khi còn ở thứ bậc thì còn giới hạn sai khác. Còn viên dung là trùm hết, dung hội nhau, không chướng ngại nhau. Hành bố viên dung là theo giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm. Phàm phu y theo thứ lớp dần dần tu tiến, gọi là hành bố thuộc tiệm môn. Viên dung là đứng về thật tướng nhất lý, trong địa vị thấp nhất cũng có thể hoàn thành giác ngộ cứu cánh thuộc đốn môn.

Nên nói trăm biến dịch trăm vô thọ vẫn là chừng hạn của tâm lượng còn chưa tột tình mê. Hai câu y phương... là hỏi minh xứ và kỹ thuật. Các núi Tu-di, quả đất, cho đến bao nhiêu lỗ chân lông, lông mày là chỗ hỏi của Đại Huệ không đến. Thế Tôn suy ra mà nêu lên.

Hỏi làm chi đến bao nhiêu lỗ chân lông, bao nhiêu sợi lông mày? Chỗ này ý Phật muốn nêu lên tất cả pháp ở thế gian dù lớn dù nhỏ, dù nhiều dù ít, khi đạt được chánh trí hay nhất thiết trí thì đều thấy biết rõ không có ngờ vực.

Lượng là số đo lường. Thượng, trung, hạ là chỉ chung cho chúng sanh ở trong thập giới.

Chúng sanh trong thập giới chia ra ba bậc thượng trung hạ. Thập giới là gồm cả bốn bậc thánh và lục đạo phàm phu, là tất cả chúng sanh tu và không tu.

Nghĩa là các chúng sanh hiệp bao nhiêu vi trần thành một thân lượng.

Nói rằng thân lượng của chúng sanh có bao nhiêu vi trần... Đó là những câu hỏi để sau này giải thích.

Mỗi sát có bao nhiêu vi trần, cung cung số có bao nhiêu, khuỷu tay, bước, câu-lô-xá (krośa), nửa do-diên, do-diên (yojana).

Xét theo cựu chú, sát là sát độ, đại thiên thế giới là một sát độ. Hai thước làm một khuỷu tay, bốn khuỷu tay làm một cung, năm trăm cung làm một câu-lô-xá, mười câu-lô-xá làm một do-diên. Do-diên tức là do-tuần.

Lối đo ngày xưa không chính xác, thí dụ như khuỷu tay, có người tay dài, người tay ngắn, khó giống nhau được. Sau đây là những danh từ chuyên môn.

Thố hào, song trần, rệp (con mạt), dương mao, khoáng mạch trần, bát-tha bao khoáng mạch, a-la mấy khoáng mạch, độc long na-khư-lê, lặc-xoa và cử-lợi, cho đến tần-bà-la, mỗi thứ ấy số bao nhiêu.

Cổ chú rằng: bảy vi trần thành song trần.

Vi trần là chỉ cho hạt bụi nhỏ nhất, bảy hạt bụi nhỏ nhất thành hạt bụi nơi cửa sổ (song trần).

Bảy song trần thành một thố mao đầu trần, bảy thố mao đầu trần thành một dương mao đầu trần.

Thố mao là lông thỏ. Bảy hạt bụi cửa sổ thành một hạt bụi nhỏ bằng đầu lông thỏ, gọi là thố mao đầu trần. Bảy thố mao đầu trần thành một dương mao đầu trần tức là đầu lông con dê.

Bảy dương mao đầu trần thành một ngưu mao đầu trần.

Ngưu mao đầu trần là đầu lông con trâu.

Bảy ngưu mao đầu trần thành một con rệp (con mạt), bảy con rệp thành con rận (chấy), bảy con rận thành một hạt cải, bảy hạt cải thành một hạt bắp. Khoáng tức là đại mạch. Bát-tha là một thăng. A-la là một đấu. Độc long là một hộc. Na-khư-lê là mười hộc. Lặc-xoa là một vạn. Cử-lợi là một ức. Tần-bà-la là một triệu.

Đây là những số lượng Ấn Độ đem phối hợp dịch sang số lượng Trung Hoa.

Có mấy a-nâu (trần) gọi xa-lê-sa-bà (hạt cải), bao nhiêu xa-lê-sa-bà gọi là một lại-đề (hạt cỏ). Mấy lại-đề thành ma-xa (hạt đậu), mấy ma-xa thành đà-na (thù). Lại bao nhiêu đà-na-la thành một ca-lê-sa-na (lượng). Bao nhiêu ca-lê-sa-na làm thành một ba-la (cân). Những tướng tích tụ này bao nhiêu ba-la-di-lâu. Những thứ này là chỗ nên hỏi sao lại hỏi việc khác?

Dẫn những số lượng phân tích xem nhiều hay ít, cũng trách tại sao không đem ra hỏi hết.

Bản này dịch âm Phạn ngữ, bản đời Đường dịch thành tiếng Trung Hoa có thể đối chiếu rõ. Ba đoạn trước sau thảy đều nêu lên số bụi khó biết. Phần cổ chú trước y theo sự đo lường của Ấn Độ chưa có thể dùng theo Trung Hoa mà đồng nhất vậy.

Thanh văn và Bích-chi Phật, Phật và hàng Bồ-tát, thân mỗi vị có bao nhiêu số, tại sao không hỏi chỗ này? Núi lửa mấy a-nâu (tức là mấy vi trần hợp thành núi lửa)? Phong luân lại mấy a-nâu (tức là phong luân có bao nhiêu vi trần)? Mỗi căn bao nhiêu a-nâu (tức là mỗi căn có bao nhiêu vi trần)? Bao nhiêu lỗ chân lông và lông mày?

Bậc thánh trong tam thừa chánh báo và y báo mỗi vị có lớn nhỏ, mà hỏi căn mỗi vị có bao nhiêu trần (vi trần), bao nhiêu lỗ chân lông và lông mày, suy ra đến núi lửa, phong luân tất cả cảnh giới tột cùng số lượng, nếu không phải bậc Nhất thiết trí ắt không thể biết hết được. Song cốt yếu trách Đại Huệ không hỏi, bởi vì muốn tột chỗ không biết kia để hiển bày lý duy thức.

Hỏi cho tột tới chỗ không thể biết, không thể trả lời được, để hiểu rằng tất cả pháp đều là duy thức.

Nghĩa là tất cả căn thân khí giới đều duy nội thức, in tuồng có hiện tiền, mà không phải do nhiều vật chứa nhóm.

Căn thân khí giới, căn là sáu căn, thân là toàn thân, khí giới là ngoại cảnh, đều do nội thức biến ra, in tuồng có hiện tiền, mà không phải do nhiều vật chứa nhóm. Chỗ này liên hệ Duy thức học, tôi cũng nói khái quát. Nhà Phật có câu Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức tương tự ở đây nói rằng căn thân khí giới đều duy nội thức. Nội thức là chỉ cho thức bên trong. Như vậy căn thân khí giới đều do thức biến, nó không thật có.

Duy thức học nói, thức biến có hai trường hợp.

1/ Biến thành danh. Danh là tên của các pháp. Bởi vì thức là cái phân biệt, so sánh mà đặt tên. Tại sao có tên nhà, tên chùa... cho đến cái bàn, cái ghế... Hoa lan trên Đà Lạt mà chúng ta cũng đặt hàng trăm thứ tên. Tự nó trong rừng không có tên, người ta đem ra nhìn thấy giống con hạc trắng bèn đặt tên là lan bạch hạc. Vậy do thức so sánh mà an danh.

2/ Biến thành tướng. Như hiện hữu mình muốn cất cái nhà, trước tiên phải suy nghĩ phác họa hình dáng cái nhà đó. Phác hoạ tướng nhà xong rồi mới bắt đầu xây cất. Cho đến làm tô, làm chén, làm gì gì đó cũng phải suy nghĩ kiểu nào cho khéo, kiểu nào đáng ưa. Từ suy nghĩ mới tạo thành. Như vậy tất cả tướng hiện giờ có phải là thức biến không? Đến thức biến ra tướng của tam giới, chỗ này hơi khó. Chúng ta biết do nghiệp chúng sanh mà tạo thành cảnh sai biệt của tam giới. Từ những niệm vọng tưởng mà tạo thành nghiệp, vọng tưởng tức là thức phân biệt. Tùy nghiệp lành dữ mà có tam giới, cảnh giới nào theo nghiệp đó. Như vậy tướng tam giới khổ vui là do thức biến hiện. Dường như thật có mà thể không thật, vì vọng tưởng vốn không thật.

So đó thì biết hành tướng tam thừa, các thiền tam-muội, Sắc cùng Vô sắc, ngoại đạo thiên tiên, tứ sanh tam đồ thảy đều duy thức biến, vốn không phải thật có, đây là ý của Phật vậy.

Tôi nói thí dụ hai người làm việc chung, do bất đồng ý kiến nên nổi sân, trước thì dùng lời thô mắng chửi, sau đi đến chỗ đánh nhau. Rốt cuộc cả hai đều mang thương tích. Cái thương tích đó khởi đầu từ đâu? Từ thức biến ra, từ chỗ lành lặn thành chỗ bị thương. Khi bị thương tích thấy là thật có, nhưng cái khởi mầm sanh lên thật có không? Nếu lúc đó chịu khó nhìn kỹ chỗ nẩy mầm khởi nóng giận thì nó biến mất. Chỉ là ý niệm không thật nhưng nếu theo nó để thốt ra ngôn ngữ, phát ra hành động thì cảnh khổ đau hiện tiền. Như vậy mọi cảnh khổ đau an vui đều từ tâm thức chúng ta biến ra, nếu dừng được tâm thức từ buổi đầu thì nghiệp không có. Nghiệp không có thì khổ vui làm gì có. Đó là chỗ tu giải thoát, lìa khỏi mọi sanh diệt.

Nếu dùng diệu trí của Phật quả thì tất cả sai biệt, tự nhiên không phải là cảnh giới của các hàng Bồ-tát. Đọc văn trước văn sau trở lại nêu ý nói của Phật thì mới nhận được chỉ thú của kinh này.

Hộ tài vua Tự Tại, vua Chuyển luân thánh đế, thế nào vua thủ hộ? Thế nào là giải thoát? Nói rộng và nói hẹp, như chỗ ông đã hỏi, chúng sanh các thứ dục, cùng các thứ uống ăn.

Từ đây về sau lại hỏi điều hỏi trước. Hộ tài vua Tự Tại ba câu là hỏi thế nào gọi là vua ba câu. Nói rộng nói hẹp là hỏi già-đà, trường, đoản cú. Chúng sanh các thứ dục hai câu, là hỏi thế nào sanh ăn uống hai câu.

Thế nào là rừng nam nữ, núi Kim Cang kiên cố, thế nào như huyễn mộng thí dụ như nai đồng khát nước thấy ánh nắng. Thế nào núi, thiên, tiên, càn-thát-bà trang nghiêm, giải thoát đến chỗ nào, ai phược ai giải thoát, thế nào cảnh giới thiền, biến hóa và ngoại đạo, thế nào vô nhân tác, thế nào hữu nhân tác, hữu nhân vô nhân tác và phi hữu nhân phi vô nhân tác, thế nào hiện đã diệt, thế nào tịnh các giác, thế nào các giác chuyển, và chuyển các sở tác. Thế nào đoạn các tưởng, thế nào tam-muội khởi, phá tam hữu là ai, ở đâu và thân gì. Thế nào không chúng sanh mà nói có ta người. Thế nào nói thế tục, cúi mong rộng phân biệt. Tướng đã hỏi thế nào và chỗ hỏi phi ngã. Thế nào là thai tạng và các thứ thân khác.

Thế nào rừng nam nữ... sáu câu là hỏi nhân đâu rừng nam nữ... sáu câu. Trong ấy kèm thế nào như huyễn mộng thí dụ như nai đồng khát nước thấy ánh nắng, là chính khi thấy cây rừng hiện tiền đều là bóng của thức tâm hiện, như huyễn mộng không thể có, như nai đồng thấy ánh nắng chạy đi tìm bởi do khát nước làm mê hoặc.

Chúng ta cần hiểu rõ thí dụ này. Dụ rằng con nai ở đồng hoang, mùa nắng hạn không gần suối, nó khát nước chạy tìm. Khi ấy nắng đồng ở xa chập chờn như sóng, nai tưởng có nước bèn chạy đến. Khi đến nơi thấy chỉ là nắng khô, rồi nhìn xa xa đằng kia cũng thấy chập chờn có nước, nó cũng chạy theo. Như vậy nó cứ mải miết chạy theo sóng nắng, không bao giờ kiếm được nước. Phật nói rằng chúng ta đối với cảnh hiện tiền đều là bóng của thức tâm hiện, như huyễn mộng không thể có, chúng ta lại tưởng nó có thật, giống như nai đồng đuổi theo sóng nắng. Vì sao các pháp chỉ là bóng do nội thức biến hiện? Chúng ta thấy người, thấy vật chẳng qua là thấy cái bóng phản chiếu qua màn ảnh của mắt. Từ cái bóng đó, thức duyên theo để phân biệt hình đẹp xấu, cảnh đẹp xấu. Sáu căn chúng ta chỉ tiếp xúc với bóng của sáu trần, không tiếp xúc được cái thật của sáu trần. Vậy mà cứ chấp vào cái bóng đó rồi mê say từ năm này sang năm khác, chạy theo tìm cầu cho đến chết, giống như con nai đồng chạy theo sóng nắng để rồi chết khát luôn.

Phân tích kỹ chúng ta càng thấy tức cười cho cuộc đời. Như vào rạp chiếu bóng tốn tiền, mình xem được gì, có mê không? Thực tế là chúng ta đi xem bóng và mê bóng. Tôi nói gần nhất là ở đây đến ngày giảng kinh mọi người còn đi chầm chậm, chứ hôm nào có chiếu phim thì đi nhanh lắm, giành chỗ đàng hoàng. Rõ ràng người ta say mê với bóng mà không biết cái thật, cả ngày chìm trong bóng. Cho đến cái bóng của mình cũng mê, mê nên rủ nhau chụp hình để xem bóng mình ra sao. Đức Phật thương xót chỗ mê lầm đó nên nói thí dụ nai đồng khát nước, khiến chúng ta thức tỉnh.

Biến hóa và ngoại đạo, là hỏi thế nào là hóa tướng cõi nước và các ngoại đạo. Thế nào vô nhân tác... bốn câu, là hỏi đồng dị thuyết (ngoại đạo) vô nhân hữu nhân tức là hai kiến có và không, phi hữu phi vô chẳng ngoài bốn câu vậy. Hiện đã diệt, là hỏi hiện rồi diệt. Tịnh giác... ba câu, là hỏi tịnh niệm kia, niệm được tăng trưởng. Thế nào đoạn các tưởng... hai câu là hỏi lặp lại thế nào là tưởng diệt nhân đâu từ định giác (dậy). Thế nào không chúng sanh... sáu câu là hỏi chung thế nào kiến lập tướng... bốn câu trước sau xen lộn. Thai tạng là hỏi thai tạng sanh, các thứ thân khác, ý hỏi nhiều loại sắc tướng.

Thế nào đoạn thường kiến, thế nào tâm được định, lời nói và các trí, chủng tánh giới Phật tử, thế nào luận lý và luận. Thế nào thầy đệ tử, thảy các loại chúng sanh, cả thảy đây lại thế nào. Thế nào là ăn uống, thông minh, ma, thi thiết. Thế nào cây, dây sắn, chỗ hỏi của Tối thắng tử. Thế nào các loại cõi, tiên nhân trường khổ hạnh. Thế nào là dòng họ, từ đâu sư thọ học. Thế nào là quê mùa, thế nào người tu hành, Dục giới sao chẳng giác, cõi A-ca-nị-tra mới thành.

Tâm được định là hỏi thế nào tâm tam-muội. Lời nói và các trí... hai câu, là hỏi ai sanh các lời nói và các trí có bao nhiêu thứ, bao nhiêu giới tánh chúng sanh. Thế nào luận lý và luận là hỏi lý luận có bao nhiêu thứ, thế nào gọi là luận.

Hỏi ai sanh các lời nói là để biết thêm về ngôn ngữ. Ngôn ngữ từ đâu mà có? Từ vọng thức sanh ra. Người nào có tu rồi mới thấy những loạn tưởng đều là loạn tưởng trên ngôn ngữ. Khi ngồi yên vừa chợt nghĩ việc này việc nọ, vừa nghĩ là có ngôn ngữ. Vọng tưởng không thật nên ngôn ngữ không thật. Người ta thương nhau ghét nhau trên loạn tưởng của ngôn ngữ, không có gì thật.

Thế nào là thầy đệ tử, là hỏi đệ tử có bao nhiêu thứ. Thế nào A-xà-lê, các loại chúng sanh... hai câu là hỏi nam nữ và hoàng môn. Thế nào là ăn uống, là hỏi thế nào sanh ăn uống. Thông minh, ma, thi thiết là hỏi thế nào niệm thông minh cùng ma và các ngoại đạo. Cây, dây sắn là hỏi rừng, cỏ rậm. Các thứ cõi là hỏi thế nào hình nhật nguyệt, cho đến như thế v.v... vô lượng. Trường khổ hạnh là hỏi thế nào trường khổ tiên. Dòng họ là hỏi Thích chủng và Cam Giá chủng. Từ đâu thấy thọ học là hỏi dựng lập cho những người nào. Quê mùa là hỏi thấp hèn. Tu hành là hỏi tu hành tiến thối vậy. Dục giới sao chẳng giác... hai câu là hỏi Dục giới không chánh giác... bốn câu. A-ca-ni-tra dịch là Sắc Cứu Cánh.

Thế nào tục thần thông, thế nào là Tỳ-kheo, thế nào là hóa Phật, thế nào là báo Phật, thế nào là như như Phật, bình đẳng trí tuệ Phật, thế nào là chúng tăng. Phật tử hỏi như thế, đàn, trống lưng eo và hoa, cõi nước lìa ánh sáng.

Tục thần thông là hỏi thế tục thông. Tỳ-kheo là hỏi phần Tỳ-ni, Tỳ-kheo. Hóa Phật là, hỏi thế nào là hóa Phật... bốn câu. Chúng tăng là, hỏi chúng tăng có bao nhiêu thứ. Cây đàn... hai câu là đồng hỏi ý rằng vô lượng cõi nước khác hình như nhật nguyệt.

Tâm địa đó có bảy, chỗ hỏi đều như thật, đây và các thứ khác rất nhiều, Phật tử cần nên hỏi. Mỗi mỗi tướng tương ưng, xa lìa các thấy lầm. Tất-đàn lìa lời nói, nay ta sẽ hiển bày, thứ lớp dựng lập câu, Phật tử khéo lắng nghe.

Đây là Phật kết thúc một trăm lẻ tám câu ngài đã lặp lại.

Tâm địa có bảy là hỏi Thất địa. Nói chung rất nhiều chỗ hỏi đều đúng lý thật. Bởi vì nói “lời thô và tiếng tế đều trở về đệ nhất nghĩa”.

Lời thô và tiếng tế đều trở về đệ nhất nghĩa. Lời thô là lời nói có vẻ thô tục cộc cằn, tiếng tế là tiếng thanh bai tao nhã. Hai lối nói đó đều trở về đệ nhất nghĩa. Tại sao? Như có người chửi mình bằng lời thô, mình nổi sân thì đâu có thấy đệ nhất nghĩa. Chúng ta chín chắn kiểm điểm, dù lời mắng chửi hay lời tán thán, bản chất của nó đều không thật, không có tự tánh thì đó là đệ nhất nghĩa đế. Chỉ vì mình thấy nó thật rồi nổi sân nên thành ra phàm tục. Với người tỉnh thì không có câu nào là phi đạo lý, với người mê thì câu nào cũng là phi đạo lý. Khi mê thì ngôn ngữ đưa tới cố chấp, thành bệnh. Khi tỉnh thì tất cả ngôn ngữ đều đưa đến giác ngộ. Ngài Từ Minh đối với đệ tử thường chửi mắng. Một hôm Hoàng Long Huệ Nam vào thưa hỏi cũng bị chửi nặng nề. Huệ Nam nói mắng chửi không phải là từ bi, ngài Từ Minh cười hỏi: Đó là chửi mắng sao? Nghe câu này Huệ Nam liền ngộ. Đó là trở về đệ nhất nghĩa đế.

Cho nên nói mỗi mỗi tướng đều tương ưng, xa lìa các thấy lầm. Đây là dụng ý trước ước định để sau chỉ thẳng. Nếu không khế hội bản tánh vô ngôn thì chẳng những thế đế lưu bố, chính đệ nhất nghĩa đế là như thật mà vẫn thuộc về danh ngôn.

Nếu chúng ta không khế hội được bản tánh vô ngôn thì không những thế đế lưu bố, là những việc thường thế gian thuộc về danh ngôn, mà chính đệ nhất nghĩa đế như thật cũng thuộc về danh ngôn không thật.

Do đó ly ngôn để hiển bày. Thế Tôn thiết tha răn bảo, nhiên hậu mới kiến lập, văn sau tự rõ. Chỗ hỏi riêng dùng Thất địa làm chung cục, là vì Thất địa về tư hoặc đã hết, tuệ tâm hiển bày, cùng vô gián tất-đàn này lẫn nhau minh chứng, cũng không phải chẳng lý do vậy.

Tư hoặc đã hết, tuệ tâm hiển bày. Tư hoặc là đối với Kiến hoặc. Kiến hoặc là sự mê lầm về thấy biết. Thí dụ ngày xưa ở thôn quê, mỗi khi bơi xuồng chèo ghe qua mấy cây cầu ván, người ta thường lấy tay che đầu. Dân gian cho rằng, qua mấy chỗ đó người ta đi trên đầu mình nên phải che để giữ cái linh thiêng thờ ông bà. Cái đó thành thói quen gọi là kiến chấp. Bây giờ ở nhà cao tầng, mình ở dưới người ở trên, chẳng lẽ cả ngày che đầu hoài? Kiến chấp đó chỉ có khi trí tưởng sai lầm, gặp thực tế biết nó không hợp lý thì cái mê hoặc lầm chấp đó bỏ rất dễ. Cho nên kinh nói có nhiều trưởng giả đang say rượu hay đang vui chơi, khi đến gặp Phật, nghe một bài kinh liền phá được Kiến hoặc, chứng quả Tu-đà-hoàn.

Tư hoặc là cái mê lầm có sẵn, chúng ta có mặt thì nó đã có như tham, sân, si. Ngay khi còn rất nhỏ, tham sân đã chực sẵn. Cái gì vừa ý thì tham, không vừa ý thì nổi giận khóc la. Chúng ta biết tham sân là xấu, mà phải tu năm năm, mười năm, hai ba chục năm không biết đã bỏ hết chưa? Nên Kiến hoặc thì đoạn mau, Tư hoặc thì đến Thất địa mới sạch. Thất địa Bồ-tát dứt sạch Tư hoặc, tuệ tâm hiển bày, cùng với vô gián tất-đàn lẫn nhau minh chứng. Vô gián tất-đàn là khắp thí mãi mãi không dừng nghỉ, không xen hở. Chúng ta hiểu lý, đạt lý thì mau mà dứt được phiền não thì không mau. Chỗ này đòi hỏi chúng ta phải tiệm tu, tu thật nhiều dứt sạch tham sân si, phương diện hoàng pháp mới vô tận.

II- ĐÁP

Phần đầu đáp một trăm lẻ tám câu chia làm hai đoạn, đoạn thứ nhất dùng bốn chữ Bất, Vô, Phi, Ly, đoạn sau gồm lại chỉ một chữ Phi. Chúng ta học kinh Lăng-già, nghe các chỗ thường nói “ly tứ cú, tuyệt bách phi” là chỗ này.

Từ trên đến đây một trăm lẻ tám câu, như chư Phật đã nói: Câu bất sanh là câu sanh, câu thường là vô thường, câu tướng là vô tướng, câu trụ dị là phi trụ dị, câu sát-na là phi sát-na, câu tự tánh là ly tự tánh, câu không là bất không, câu đoạn là bất đoạn.

Bất, Vô, Phi, Ly là một tràng phủ định. Nói sanh chẳng phải sanh, nói trụ chẳng phải trụ. Nói thường không phải thường, nói tự tánh không phải tự tánh. Tại sao chỉ trả lời là “không phải”? Sau đây ngài Hàm Thị giải rộng, nếu hiểu đoạn này các đoạn khác chỉ cần đọc lại là rõ.

Như chư Phật đã nói, nghĩa là chỗ đáp của Thế Tôn cùng với chư Phật ba đời không khác, chư Phật đồng một bí mật.

Bí mật của ba đời chư Phật là phủ định tất cả, phủ định cũng là khẳng định.

Xét lời đáp này chỉ có bốn chữ: bất, vô, phi, ly. Đây là lời chỉ thẳng vậy. Chỉ ngăn cái quấy kia mà chẳng nói cái phải kia.

Hỏi thế nào là sân? Đáp phi sân là chỉ thẳng. Đó là phá chấp mà không chỉ ra lẽ thật, cho nên chỉ ngăn cái quấy mà không nói cái phải. Sau đây dùng thí dụ:

Nếu có chỗ phải thì nào khác với quấy. Như vàng làm đồ trang sức, nghĩa là vàng không phải bình, không phải bàn, không phải thoa, không phải xuyến, khiến cho người ngay đó thấu suốt.

Người ta dùng vàng chế ra các món trang sức. Nếu ai hỏi hoa tai phải là hoa tai không? Nói không phải. Hỏi cà rá phải là cà rá không? Nói không phải. Như vậy là muốn chỉ cái gì? Chỉ thẳng đó là vàng. Giả sử vàng tạo một trăm thứ thì có một trăm tên khác nhau nhưng thể không khác. Muốn cho người nhận ra thể vàng thì khi hỏi trăm thứ tên chúng ta đều phủ nhận, để người hỏi biết đó là vàng đừng lầm mấy tên kia là thật. Khi phủ nhận, đó là chỉ thẳng. Mật chỉ của chư Phật là như vậy.

Không phải, nghĩa là không phải bình, không phải bàn, không phải thoa, không phải xuyến, để rõ nó là vàng vậy. Toàn Như Lai tàng tức là thức, nghĩa là Như Lai tàng không tự tánh, không thể tự giữ, vọng có sở giác. Biết nó là vọng thì không có năng giác sở giác.

Tám thức đối ngoại cảnh khởi phân biệt, có trăm ngàn thứ tên, trăm ngàn thứ biết. Tất cả thứ đó xét cho kỹ đều từ Như Lai tàng, nên khi hỏi tất cả các pháp đều được đáp là Chẳng phải. Mục đích để làm gì? Để biết tất cả pháp đều là Như Lai tàng.

Nên nói toàn thức tức là Như Lai tàng. Không có năng tàng thì ai biết là tàng?

Tám thức tức là Như Lai tàng, các thức tuy khác nhau nhưng gốc từ Như Lai tàng. Nếu không có năng tàng là cái hay chứa thì ai biết nó là kho chứa? Thí dụ như có cái kho, chúng ta đem các thứ để vào trong đó, rồi nói các món đồ được chứa ở trong kho. Nếu không có kho thì không thể nói các món đồ được chứa mà nói quăng đâu đó thôi. Nói chứa tức là có cái kho nên ở đây nói Không có năng tàng thì ai biết là tàng.

Nói là thức bởi nơi cảnh giới của nó mà không thể lặng yên tự dứt, do phân biệt liền phát sanh.

Sở dĩ Như Lai tàng là thức bởi cảnh giới của nó không giữ được tự thể yên lặng mà dấy động sanh ra vọng thức.

Ngộ là ngộ được nó vọng sanh phân biệt, phân biệt cảnh của mình và phân biệt cảnh khác, đều nhiếp về phân biệt, tức rõ nó là vàng làm ra vậy.

Khi mê thì theo vọng thức phân biệt, bây giờ ngộ là ngộ được cái vọng sanh phân biệt. Tức là thấy được những cái phân biệt cảnh của mình và cảnh khác đều nhiếp về phân biệt, tức rõ nó là vàng làm ra vậy. Đây là hợp dụ với pháp. Như Lai tàng tức là vàng, làm ra các món trang sức tức là các thức hay phân biệt.

Cho nên phàm có nói năng đều do phân biệt.

Ngôn ngữ chúng ta đều từ phân biệt mà phát ra. Cổ đức có câu Nước bình thì không chảy, người bình thì không nói. Khi chúng ta đi cuốc đất, nhổ cỏ mà nhớ chuyện năm trên năm dưới, kể lại om sòm, đó là vọng tưởng phát ra ngôn ngữ. Còn nếu cuốc đất suốt buổi mà không nói gì thì ngay khi đó là thiền. Có người chủ trương đi làm một mình để khỏi nói. Nhưng không nói với ai mà độc thoại, vừa làm vừa nhớ đủ thứ. Đó cũng là vọng tưởng lôi. Muốn yên thì phải khéo biết vọng tưởng hư dối, ngôn ngữ hư dối thì nó mới hết khả năng lôi cuốn.

Phàm có phân biệt đều là thế đế.

Thế đế là lẽ thường của thế gian. Ngồi lại thì nói chuyện đầu trên đầu dưới, xóm này xóm kia, đó là chuyện thế đế.

Ba cõi hai mươi lăm loài đều là thế đế. Phải quấy, thiện ác, nam nữ, thân của, dựng lập đều là thế đế.

Phàm những gì đối đãi, chia ra năng sở phải quấy... đều thuộc về thế đế.

Cho đến ba thừa, mười hai bộ, nội điển ngoại điển, nhân quả, tiến thối, chứng hướng thảy đều là thế đế.

Chỗ này hơi khó hiểu. Chuyện phàm tục thế gian là thế đế phải rồi, còn tam thừa, nội điển, ngoại điển, nhân quả, tiến thối, chứng hướng đều là thế đế! Tại sao vậy? Bởi vì còn đang trong giai đoạn tu tiến, còn dùng ngôn ngữ lập giáo để phân chia thứ bậc thì tất cả các phân chia đều thuộc về thế đế. Vì nó là tướng sanh diệt, phàm phu thì bị phần đoạn sanh tử, Nhị thừa thì bị biến dịch sanh tử, cũng thuộc thế đế. Chỉ có lẽ thật bất sanh bất diệt mới gọi là đệ nhất nghĩa đế.

Phàm thế đế thì không thể nói là đệ nhất nghĩa đế. Đệ nhất nghĩa đế không phải phân biệt mà được, không phải ngôn thuyết mà trình bày được.

Đệ nhất nghĩa đế lìa phân biệt và ngôn thuyết. Hai cái đó đều nằm trong thế đế. Chúng ta tu bước đầu kẹt ở ngôn thuyết, tức là ngồi nói chuyện một mình. Khi dừng được ngôn ngữ thì còn lại phân biệt. Từ phân biệt sanh ngôn thuyết, từ ngôn thuyết sanh phân biệt. Thí dụ như từ phân biệt nên mình nói những điều hay điều dở, điều hay dở đó người khác nghe lại khởi phân biệt hay dở, lại sanh ra ngôn thuyết nữa. Cứ như vậy mà đối đãi nhau sanh diệt luôn luôn không dừng.

Nếu phân biệt ngôn thuyết về đệ nhất nghĩa đế, ấy là phân biệt ngôn thuyết, không phải đệ nhất nghĩa đế. Nếu lìa phân biệt ngôn thuyết tức là đệ nhất nghĩa đế, liền đó thấu suốt, thì ba thừa mười hai bộ đều là đệ nhất nghĩa đế.

Ba thừa, mười hai bộ có thể là thế đế mà cũng có thể là đệ nhất nghĩa đế. Đứng về phân biệt ngôn thuyết thì ba thừa, mười hai bộ thuộc về thế đế. Nếu đứng về không phân biệt không ngôn thuyết thì ba thừa, mười hai bộ là đệ nhất nghĩa đế. Hiểu cho thật rõ, chúng ta mới thấy không thể lìa kinh giáo mà cũng không chấp kinh giáo. Lỗi ở chỗ là chúng ta nhìn kinh điển với phân biệt ngôn thuyết. Nếu không phân biệt, không ngôn thuyết thì kinh điển không có lỗi.

Nội điển ngoại điển, nhân quả, tiến thối, chứng hướng đều là đệ nhất nghĩa đế. Cho đến ba cõi hai mươi lăm loài, phải quấy, thiện ác, nam nữ, thân của, dựng lập, rừng cây, mây gió, tinh tú, xe cộ, y phục, nhà cửa, sản nghiệp, tà chánh, cúi ngước, co duỗi, ngày đêm, ngủ thức thảy là đệ nhất nghĩa đế.

Ngoài những pháp xuất thế, kể cả hai mươi lăm loài chúng sanh, thiện ác, phải quấy... nếu không khởi phân biệt và ngôn thuyết, những cái thấy trước mắt đó đều là đệ nhất nghĩa đế. Đệ nhất nghĩa đế không phải ở chỗ nào mầu nhiệm mà ngay trong thế gian này, trong mọi tướng sanh diệt.

Phần nhiều chúng ta tu hay mơ ước một nơi an trú đệ nhất nghĩa đế bất sanh bất diệt. Rời tam giới và hai mươi lăm loài riêng có đệ nhất nghĩa đế nơi nào không? Ngay trong tam giới, hai mươi lăm loài, ngay trong tốt xấu thiện ác mà nếu tâm không phân biệt, ngôn thuyết lặng lẽ thì ngay đó là đệ nhất nghĩa đế. Mê và giác không phải tại cảnh bên ngoài mà tại tâm mình. Tâm mê thì dù cho nói đệ nhất nghĩa đế cũng thành thế đế, tâm ngộ dù cho thế đế cũng trở thành đệ nhất nghĩa đế.

Kinh Pháp Hoa nói: “Chẳng phải tam giới mà thấy tướng tam giới, Như Lai thấy rõ không có sai lầm”. Cho nên biết đệ nhất nghĩa để lìa phân biệt, bặt ngôn thuyết, tự tri tự chứng mà thôi. Nên nói là lời chỉ thẳng vậy.

Chẳng phải tướng tam giới mà thấy tam giới, vì tướng tam giới không thật, chỉ tạm có. Đối với Phật thấy rõ không có sai lầm, ngay trong tam giới ngài vẫn sống trong đệ nhất nghĩa đế.

Thế nên vẫn dùng chữ bất, chữ vô, chữ ly, chữ phi mà chẳng nói nó là thị (phải). Chư Phật ba đời đồng một bí mật.

Mở đầu Trung quán luận liền nói bát Bất: bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ giống như ở đây nói Phi. Ý chỉ chỗ này là phủ định tất cả những cái giả dối lâu nay chúng ta chấp cho là thật, để nhận ra chân thật.

Câu bất sanh là câu sanh, bản dịch đời Đường câu sanh là phi sanh, tức là người đời nói sanh mà chỉ nó là phi. Phi là lý vô sanh. Tức là ở trong cái sanh vậy.

Phi là lý vô sanh. Tại sao? Vì nói sanh thì người ta tưởng có cái sanh thật, có sanh thật thì có diệt thật. Sanh không thật thì diệt không thật, sanh diệt không thật tức là vô sanh, cho nên Phi là nói lý vô sanh. Ngay sanh mà thấy được lý vô sanh.

Thường là cái thường trong vô thường chấp là thường. Tướng là gồm sự tướng, lý tướng. Trụ dị là hai tướng trong bốn tướng: sanh, trụ, dị, diệt.

Câu biên phi biên, câu trung phi trung, câu thường phi thường, câu duyên phi duyên, câu nhân phi nhân, câu phiền não phi phiền não, câu ái phi ái, câu phương tiện phi phương tiện, câu xảo phi xảo, câu tịnh phi tịnh, câu thành phi thành, câu thí (dụ) phi thí (dụ), câu đệ tử phi đệ tử, câu sư phi sư.

Những điều này nếu có học Trung quán thì dễ hiểu. Nói thầy mà chẳng phải thầy là sao? Nếu không có trò thì thầy với ai? Gọi là thầy đối với trò, gọi là trò vì đối với thầy. Ngôn ngữ là đối đãi, đối đãi thì không thật. Ngồi trong lớp thì thầy trò, ở nơi khác làm phận sự khác thì hết cái nghĩa đó. Chúng ta quen chấp danh từ cho là thật, Trung quán thì không cho nói thật. Cha không thật, con không thật, thầy không thật, trò không thật. Tất cả danh từ là đối đãi tạm trên ngôn ngữ, phân tích ra tất cả đều không thật.

Biên là hữu biên và vô biên, đây là tà kiến của ngoại đạo. Trung là đối với ngã, pháp được nghĩa trung đạo.

Giữa ngã và pháp hiểu thấu suốt, đạt được nghĩa trung đạo.

Hai câu này trong lời hỏi trước không có, song “biên” tức nhiếp vào đồng và dị, “trung” tức nhiếp vào thường kiến chẳng sanh. Văn sau phần nhiều đủ ý hỏi mà lời thì không, nên phỏng theo đây mà biết. Văn trước nói thường là thế gian vô thường chấp là thường. Ở đây nói thường là ngoại đạo chấp có tánh thường. Phương tiện là tất cả thánh giáo và thế giáo tạo ra phương tiện. Xảo là nghĩa xảo hợp, cũng nhiếp thuộc phương tiện.

Câu chủng tánh phi chủng tánh, câu tam thừa phi tam thừa, câu sở hữu phi sở hữu, câu nguyện phi nguyện, câu tam luân phi tam luân.

Những chỗ này chỉ đọc mạnh một chữ. Chữ gì? Chỉ nhấn mạnh chữ Phi thôi.

Câu tướng phi tướng, câu hữu phẩm phi hữu phẩm, câu chung phi chung.

Câu sở hữu là câu tịch tịnh như thật đã có. Nguyện là chỗ tự nguyện mà nguyện, thuộc về câu Bồ-tát. Tam luân là thân luân, khẩu luân và ý luân. Nói rằng tam luân nghiệp không vậy. Tướng là kiến lập pháp tướng.

Thường nghe nói bố thí tam luân không tịch. Tam luân là thân, khẩu, ý đều trong sạch. Cũng có chỗ khác giải thích tam luân là người bố thí, kẻ thọ thí và vật đem ra thí.

Câu duyên tự thánh trí hiện pháp lạc phi hiện pháp lạc, câu cõi nước phi cõi nước, câu a-nâu phi a-nâu, câu nước phi nước, câu cung phi cung, câu thật phi thật, câu số phi số, câu minh phi minh, câu hư không phi hư không.

Duyên tự thánh trí pháp lạc là chứng tự thánh trí được pháp lạc. Câu thật là ngoại đạo cho bốn đại chủng là có thật tánh hay sanh các pháp.

Bốn đại chủng là đất nước gió lửa, ngoại đạo cho nó có tánh thật, hay sanh ra các pháp.

Câu số trước là bổ túc cho pháp số 32. Câu số sau là chỉ số lượng. Minh là cái minh của Tam minh, tức là nghĩa Tam minh Lục thông. Hư không là vọng thấy như hư không.

Câu mây phi mây, câu công xảo kỹ thuật minh xứ phi công xảo kỹ thuật minh xứ, câu phong phi phong, câu địa phi địa, câu tâm phi tâm, câu thi thiết phi thi thiết, câu tự tánh phi tự tánh, câu ấm phi ấm, câu chúng sanh phi chúng sanh, câu tuệ phi tuệ, câu Niết-bàn phi Niết-bàn, câu sở tri phi sở tri, câu ngoại đạo phi ngoại đạo, câu hoang loạn phi hoang loạn, câu huyễn phi huyễn, câu mộng phi mộng, câu diệm phi diệm, câu tượng phi tượng, câu luân phi luân, câu càn-thát-bà phi càn-thát-bà, câu thiên phi thiên, câu ăn uống phi ăn uống, câu dâm dục phi dâm dục, câu kiến phi kiến, câu ba-la-mật phi ba-la-mật, câu giới phi giới, câu nhật nguyệt tinh tú phi nhật nguyệt tinh tú, câu đế phi đế, câu quả phi quả, câu diệt khởi phi diệt khởi, câu trị phi trị, câu tướng phi tướng, câu chi phi chi, câu xảo minh xứ phi xảo minh xứ, câu thiền phi thiền, câu mê phi mê, câu hiện phi hiện, câu hộ phi hộ, câu tộc phi tộc.

Luân là hỏa luân. Trị là trị của đối trị, nghĩa là Như Lai theo bệnh cho thuốc, như lương y ở thế gian. Tướng có ba lối đáp: 1/ Tất cả sự lý đều không có thể tướng. 2/ Kiến lập pháp tướng. 3/ Hình tướng là chúng sanh sanh các cõi tướng gì, dáng loài gì. Chi là chi phần, tức là hình thể từng phần từng đoạn. Mê là mê hoặc. Hiện là hiện nhị kiến. Hộ là thủ hộ nước. Tộc là chủng tộc.

Câu tiên phi tiên, câu vương phi vương, câu nhiếp thọ phi nhiếp thọ, câu bảo phi bảo, câu ký phi ký, câu nhất-xiển-đề phi nhất-xiển-đề, câu nam nữ hoàng môn phi nam nữ hoàng môn, câu vị phi vị, câu sự phi sự, câu thân phi thân, câu giác phi giác, câu động phi động, câu căn phi căn, câu hữu vi phi hữu vi, câu vô vi phi vô vi, câu nhân quả phi nhân quả, câu sắc cứu cánh phi sắc cứu cánh, câu tiết phi tiết, câu rừng cây bìm sắn phi rừng cây bìm sắn.

Nhiếp thọ là bị nhiếp thọ và hay nhiếp thọ.

Nhiếp thọ nghĩa là gì? Thọ là nhận, nhiếp là thu nhiếp. Nghĩa là nhận lấy, thu lấy. Nhận lấy thì có người nhận và vật bị nhận. Cũng như tay mình là hay lấy thì lấy cái gì? Lấy muỗng hoặc lấy tách... Muỗng, tách là cái bị lấy. Vì vậy mà nói hay nhiếp thọ và bị nhiếp thọ.

Pháp thế gian và xuất thế gian đều có nghĩa nhiếp thọ. Ký là ký luận. Vị là vị của nghĩa vị, nghĩa là nghĩa vị của cái bị nói.

Các câu nói đều có nghĩa vị của nó. Câu nói nào không có nghĩa vị thì câu đó vô nghĩa.

Sự là việc làm ra của thế gian và xuất thế gian. Giác là giác tri tức nhân cảnh sanh tâm phân biệt. Động là đối tĩnh mà nói. Căn là căn thân.

Câu tạp phi tạp, câu thuyết phi thuyết, câu Tỳ-ni phi Tỳ-ni, câu Tỳ-kheo phi Tỳ-kheo, câu xử phi xử, câu tự phi tự. Đại Huệ! Đó là một trăm lẻ tám câu Phật trước đã nói, ông và những đại Bồ-tát phải nên tu học.

Phật đáp xong một trăm lẻ tám câu rất khỏe. Mình tưởng chừng bao nhiêu câu hỏi, đáp hết câu này đến câu kia rất phiền, không ngờ Phật chỉ lặp lại và thêm chữ Phi, đó là đáp xong. Không riêng đức Phật Thích-ca mà chư Phật trước cũng đều đáp như vậy.

Tạp là rất nhiều ngôn thuyết. Xử là chỗ ở, có nghĩa trụ mà trì ấy vậy. Thế gian và xuất thế đều có nghĩa trụ trì, là gánh vác trụ trì. Lại nói Phật trước đã nói, nghĩa là Phật pháp thế pháp tất cả sự lý nhân quả này, đều là liền đó lìa tánh phân biệt đường ngôn ngữ bặt dứt.

Chư Phật trong ba đời nói chỗ chân thật lìa phân biệt và ngôn thuyết. Khi khởi phân biệt và ngôn thuyết, chúng ta không bao giờ thấy được cái chân thật, dù cho nói pháp giải thoát cũng không đến được.

Chư Phật ba đời đồng một bí mật, thâm thiết dạy bảo trước sau không hai.

Bí mật của ba đời chư Phật là một tràng phủ định, đó là chỗ thâm thiết dạy bảo. Phật muốn chỉ chúng ta con đường đệ nhất nghĩa nên trả lời bằng cách phủ nhận các pháp. Tôi thí dụ như người xem phim ảnh. Người si mê thấy những hình ảnh được chiếu ra đều cho là thật, thấy cảnh vui buồn tưởng thật rồi chấp, chạy theo người và cảnh trong phim, lúc ấy có người sáng suốt muốn cảnh tỉnh người mê thì phải làm sao? Phải phủ nhận, nói cảnh đó người đó không thật để người si mê giật mình. Tỉnh ra biết mình lầm, tâm không bị hình ảnh đó chi phối. Người tu là người học lẽ thật. Chân lý, lẽ thật khi nói ra ngược với ý thích mọi người. Nói về thân thể chỉ là đãy da hôi thối, nghe rất chán không hấp dẫn. Song đó là sự thật, vì thế sự thật không lôi cuốn mà những cái giả dối lại hấp dẫn mê hoặc người. Phật là người thấy rõ cái giả cái thật, nên luôn luôn dạy bảo chúng ta buông bỏ giả dối, phủ nhận giả dối để sống với lẽ thật thường hằng. Chỉ vì cái mê lầm của chúng ta quá sâu nên thấy lời Phật khó hiểu, thấy nó trái với thường tình chúng sanh.

BÀY NGÔN THUYẾT ĐỂ VÀO ĐỆ NHẤT NGHĨA BIỂN THỨC THƯỜNG TRỤ, DÙNG HIỂN DUY TÂM 

(Phân làm tám phần)

A. NÓI NHÂN QUẢ TÀ CHÁNH CỦA TÁM THỨC ĐỂ HIỂN THÁNH TRÍ TỰ GIÁC (Phân làm hai phần)

I- LƯỢC NÓI NHÂN QUẢ TÀ CHÁNH CỦA TÁM THỨC ĐỂ BIỂU THỊ LÌA VỌNG MÀ CHỨNG (Phân làm bảy phần)

1. CHỈ CÁC THỨC SANH DIỆT KHÓ BIẾT

Khi ấy Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Các thức có mấy thứ sanh, trụ, diệt? Phật bảo Đại Huệ: Các thức có hai thứ sanh, trụ, diệt, chẳng phải suy nghĩ biết được. Các thức có hai thứ sanh, nghĩa là lưu chú sanh và tướng sanh. Có hai thứ trụ, nghĩa là lưu chú trụ và tướng trụ. Có hai thứ diệt, nghĩa là lưu chú diệt và tướng diệt.

Ngài Đại Huệ căn cứ trên thức mà hỏi, không căn cứ trên gốc mê ban đầu. Hỏi thức có mấy thứ sanh trụ diệt, Phật trả lời mỗi thức có hai: Lưu chú và tướng. Sanh trụ diệt đều qua hai trạng thái lưu chú và tướng.

Ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức. Bốn quyển kinh Lăng-già trước sau gốc ngọn, chỉ có một xâu kết trọn vẹn.

Chỗ nhất quán của kinh này là nói rõ ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức.

Thế và xuất thế gian không có tướng một hai, không có tướng ngôn thuyết, hiện tại toàn chân thì đâu cho nghĩ bàn.

Đứng về mặt chân thật thì không thể nghĩ bàn. Người đạt được thể chân đó rồi có nói có nghĩ không? Phật đã đạt đến chỗ toàn chân rồi mà vẫn nói ba tạng kinh. Vậy là sao? Bởi vì chúng sanh mê, khi nghĩ thì cho tâm mình nghĩ thật, nên chấp cái nghĩ cái nói mà sanh ra bao nhiêu thứ bệnh. Phật biết chỗ đó không dùng ngôn thuyết, nhưng phải phương tiện dùng ngôn thuyết để diễn đạt chỗ chân thật cho mọi người tỉnh.

Do đó Như Lai chung một trăm lẻ tám câu chỉ đáp khái quát bằng một chữ Phi. Vì không thể nói bày, nên dùng lời nói ngăn để cho người thầm ngộ vậy. Ngộ rồi mà lại thưa hỏi về thức, vì lý duy thức không cùng thì lượng duy tâm chẳng hiện.

Ngài Đại Huệ nghe Phật dùng một trăm lẻ tám câu Phi trả lời thì đã ngộ rồi, tại sao đến đây còn hỏi về nghĩa thức? Ý nói rằng, nếu muốn thấu suốt lý duy tâm thì trước phải hiểu tột cùng nghĩa duy thức.

Các thức là tám thứ thức. Thức thứ tám là Như Lai tàng, cũng gọi là tàng thức, cũng gọi là hiện thức. Thức này là nguồn mê ngộ của chúng sanh và Phật.

Thức thứ tám là gốc của mê mà cũng là gốc của ngộ. Mê nó là chúng sanh, ngộ nó thì làm Phật.

Kinh Giải Thâm Mật vì hàng Bồ-tát thủy giáo không thể kham nhận thức thứ tám, riêng lập thức thứ chín, tức là chỉ cái chân tướng của thức này.

Theo hệ thống Hoa Nghiêm lập giáo có: tiểu, thủy, chung, đốn, viên. Thủy giáo chỉ cho Bồ-tát từ tiểu giáo bước qua thủy giáo, nên chưa thấu suốt được lý duy tâm. Vì vậy nói thức thứ tám - tàng thức vừa chân vừa vọng thì không hiểu, nên phải lập ra thức thứ chín. Thức thứ chín là Bạch tịnh thức, thức trong sạch, đó là gốc của giác. Bây giờ nghe nói thức thứ tám vừa mê vừa ngộ thì mình hiểu sao? Mê là trên những chủng tử sanh diệt của nó mà chấp cho là thật rồi quên cái kho. Ngộ là biết những chủng tử sanh diệt không thật, cái kho là thể trùm hết. Khi bỏ hết, loại hết chủng tử thiện ác thì tàng thức biến thành Như Lai tàng, còn gọi là Không Như Lai tàng, tức là cái kho Như Lai trống không. Chủng tử thiện ác là nhân sanh trong các cõi lành dữ. Khi chúng hết rồi, thì còn lại Không Như Lai tàng thể bất sanh bất diệt, không có cái thứ hai nào khác. Đối với các vị Bồ-tát mới đăng địa sợ nói chung như vậy khó hiểu, nên nói khi hết chủng tử thì có thức thứ chín là Bạch tịnh thức, thức đó trong sạch không sanh diệt.

Trong Khởi Tín Luận lập nghiệp tướng, chuyển tướng, hiện tướng. Nghĩa là Như Lai tàng chuyển làm tàng thức là y theo mê mà nói. Thức này toàn vọng là toàn chân vốn không có hai thể.

Tàng thức cũng là Như Lai tàng. Khi hết chủng tử thì nó là Như Lai tàng, mang đầy chủng tử thì nó là tàng thức.

Chỉ đến mê ngộ dường như có dụng khác. Nghĩa là sanh diệt cùng chẳng sanh diệt hòa hợp.

Chủng tử thì sanh diệt, kho thì chẳng sanh diệt. Kho và đồ chứa, hai cái hòa hợp nhưng vẫn khác nhau. Chúng ta vào kho lấy đồ. Kho không thể đem ra đem vô là du cho Như Lai tàng không sanh không diệt, còn đồ chứa đem vô đem ra là dụ cho chủng tử sanh diệt. Đứng về mặt vọng khởi của thức thì sanh diệt, đứng về mặt kho Như Lai tàng thì không sanh diệt. Vì vậy nói sanh diệt cùng chẳng sanh diệt hòa hợp.

Chẳng phải có hai tâm, cũng chỉ điểm khi mê, tướng không sanh diệt vẫn rõ ràng.

Khi mê là khi đem bao nhiêu chủng tử vào trong kho, cái kho vẫn rõ ràng hiện hữu, đó là khi mê vẫn có tướng không sanh diệt.

Thức thứ bảy tên là Ý, tiếng Phạn gọi là mạt-na. Thứ sáu là ý thức, năm thức trước là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân thức, chung lại gọi là Phân biệt sự thức.

Chung cả sáu cái, ý thức và năm thức trước, gọi là Phân biệt sự thức.

Chung lại là tám thứ thức. Hỏi các thức mà trước gạn sanh trụ diệt là tột cái tình trạng của các thức vậy.

Hỏi sanh trụ diệt của các thức là hỏi tột thể của nó chứ không phải dụng của nó.

Đáp sanh trụ diệt mà trước nói chẳng phải suy nghĩ mà biết được. Nghĩa là trong sanh diệt đã sẵn có cảnh giới của Văn-thù, Phổ Hiền, chỉ người chứng mới biết, chẳng phải Thanh văn, Duyên giác đến được. Lưu chú là chân pháp không tánh chẳng hay tự giữ nên có nghĩa thiên lưu.

Thức lưu chú nghĩa là gì? Tức Như Lai tàng là chân pháp không tánh vì không tự giữ được, bèn thành dời đổi. Bởi dời đổi nên gọi là lưu chú.

Đây là lấy bất giác vọng động làm sanh.

Như Lai tàng không giữ tự thể nên có bất giác vọng động, từ bất giác vọng động khởi sanh ra thức. Thí dụ như cái hồ lớn. Mặt hồ không có gió thì phẳng lặng, nhưng nó không giữ tánh cố định như vậy, nên khi có gió thổi thì sóng nổi lên. Cái dấy động đó là sóng, còn mặt hồ phẳng thì gọi là nước. Mặt hồ phẳng và sóng là một hay hai? Cái phẳng và cái động tuy khác nhau, nhưng không có hai thể. Khi trên mặt hồ đó gió thổi sóng động thì đếm chừng bao nhiêu lượn sóng? Khi ngừng gió sóng lặng thì còn bao nhiêu? Chỉ một mặt hồ thôi. Khi nổi sóng thì đếm cả trăm ngàn, còn mặt hồ thì không nói là một hay hai ba. Như vậy để thấy rằng Như Lai tàng không phải một, không phải hai, vừa có vọng động lưu chú liền bất giác sanh ra các thức. Từ các thức đó chia chẻ biến chế rất nhiều. Duy thức nói có tám, nếu theo nguyên thủy chia chẻ đến một trăm lẻ mấy. Như nhãn thức, khi mắt thấy sắc, khởi lên phân biệt, tùy theo phân biệt nặng nhẹ nhiều ít mà các tâm lý phụ thuộc chuyển biến hoặc thương, ghét, thương hai phần, ghét một phần... thay đổi lung tung, phức tạp vô cùng. Vì vậy nói có trăm ngàn thức, không phải một. Giống như mặt hồ khi gió thổi thì có trăm ngàn lượn sóng. Tuy có trăm ngàn nhưng khi lặng xuống thì một cũng không còn. Như vậy để hiểu ý nghĩa từ Như Lai tàng dấy động mới có tàng thức.

Một phen đi không trở lại là trụ.

Trong thời gian đi luôn gọi là trụ, chẳng phải trụ là dừng. Khi thức lưu chú dấy một niệm đi luôn, chạy theo dòng thức mãi mãi, ở trong dòng thức đó mà không trở lại cái gốc đầu, tạm gọi là trụ. Như vậy trụ là trụ trong cái biến đổi. Cũng như gió nổi sóng rồi cứ nổi ẩm ẩm hoài, giai đoạn đó là trụ.

Vô tưởng, ngủ say và chết ngất là tạm diệt.

Đến vô tưởng định, hoặc lúc ngủ say không mộng, hoặc lúc chết ngất, lúc đó thức xem như tạm diệt.

Diệt rồi lại sanh không có cùng tột. Nếu bàn về quả chứng phải do trí lực quán sát, đến Kim cang địa về sau dị thục mới không.

Trong kinh Lăng-nghiêm, khi phá xong năm uẩn, qua khỏi phạm vi thức uẩn, gọi đó là Kim cang địa. Từ đây về sau dị thục không, tức là thức thứ tám không còn gọi tên là Dị thục thức.

Nhưng trong kinh Hoa Nghiêm hàng Thập trụ sơ tâm thấy rõ Phật tánh cũng hay liền đó biết trở về, cùng Phật không khác.

Đứng về giáo lý Hoa Nghiêm thì hàng Thập trụ Bồ-tát cũng rõ được Phật tánh, cũng biết chỗ trở về không khác chư Phật. Giống như nhà thiền nói ngộ được Phật tánh thì đồng với Phật.

Nên nói nhân quả suốt nhau. Tướng là nghiệp dụng của các thức, ở văn sau nói các thứ hư vọng chẳng thật và tất cả tướng căn thức v.v... Tướng này khi chưa che đậy chân tánh, do có lưu chú, niệm niệm chẳng dừng, chính khi sanh đã có diệt, chưa dễ vì người ngu mà nói.

Chính khi sanh đã có diệt, tâm niệm của chúng ta khi chưa dừng thì sanh diệt tiếp nối liên miên, không sanh luôn mà cũng không phải diệt. Vì nó không dừng nên nói khi sanh đã có diệt.

2. LƯỢC NÓI THỨC TƯỚNG Y NƠI CHÂN DO MÊ PHÁT KHỞI

Đại Huệ! Các thức có ba thứ tướng. Nghĩa là chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng.

Chuyển là nghĩa chẳng trụ, là các thức niệm niệm chẳng trụ. Nghiệp là nghiệp của tam tế, trong luận Khởi Tín nói. Luận Khởi Tín riêng chỉ tướng ban đầu của tám thức, ở đây nói các thức đều nhân bất giác vọng động.

Luận Khởi Tín nói nghiệp tướng là chỗ ban đầu của tám thức. Kinh đây nói là bất giác vọng động, có khác một chút.

Tuy bất giác vọng động mà niệm niệm chẳng dừng hiện tại toàn không.

Bất giác vọng động niệm niệm chẳng dừng, đã không dừng thì không thật, song chúng ta cứ lầm tưởng niệm đó là thật.

Tuy bất giác vọng động niệm niệm chẳng dừng mà toàn thể đều chân, không riêng có chuyển tướng, nghiệp tướng. Lưu chú và tướng vẫn chỉ trong mê sanh diệt.

Tuy bất giác vọng động niệm niệm chẳng dừng mà toàn thể là chân. Như thí dụ mặt nước nổi sóng, bao nhiêu lượn sóng nổi lên đều có nước, có nước mới thành sóng, tức là đều từ mặt nước phẳng mà ra. Vì vậy nói niệm niệm tuy có sanh diệt mà toàn là chân.

Đây là đến nơi chuyển tướng nghiệp tướng chỉ ra chân tướng, trong chỗ sanh diệt ấy đầy đủ hành xứ của Như Lai.

Chúng ta có từng niệm đổi thay sanh diệt gọi đó là vọng tưởng, chính ngay khi đuổi theo vọng tưởng đã sẵn có tánh giác tức Như Lai. Khi con mắt thấy, mình quên cái hay thấy mà chỉ nhớ cảnh bị thấy, lúc đó cái hay thấy bị quên vẫn hiện hữu. Trong khi chúng ta đang đuổi theo vọng tưởng, cái chân vẫn hiện tiền không thiếu.

Duy phải chứng mới biết không thể dùng ý nghĩ được. Bồ-tát Thiên Thân làm luận nói: “Hành xử của chư Phật Như Lai duy có chân thức, không thể phân biệt quán sát, như thế vào nơi thức không.”

Hành xứ của Như Lai duy có chân thức tức là chân thức ấy không thể quán sát được. Như thế vào nơi thức không, các thức phân biệt quán sát đều là không, chỉ có chân thức hiện hữu.

Thế nên y nơi thức nhập nhất thiết pháp vô ngã, chẳng phải bảo một bể chê chân thức vậy.

Ngay nơi thức mà ngộ thì thấy được các pháp vô ngã, thấy các pháp vô ngã là trở về chân, như vậy đâu phải là chê chân thức.

Này Đại Huệ! Nói lược có ba thứ thức, nói rộng có tám tướng. Những gì là ba? Nghĩa là chân thức, hiện thức và phân biệt sự thức. Đại Huệ! Ví như gương sáng gìn giữ các sắc tượng, hiện thức ở trong ấy mà hiện cũng lại như thế.

Phật đưa ra thí dụ để rõ ba thứ thức: chân thức, hiện thức và phân biệt sự thức.

Ba thứ là tổng nhiếp tướng của tám thức. Hiện là chỉ cho thức thứ tám. Phân biệt là chỉ bảy thức trước. Chân là tổng nhiếp hai thức.

Chân thức là tổng nhiếp cả hiện thức và phân biệt sự thức.

Chân thí dụ như gương. Hiện dụ như ánh sáng của gương. Vì ánh sáng của gương hay hiện nên gọi là hiện thức. Cái bị hiện trong ánh sáng của gương các hình tướng rành rõ, nên gọi là phân biệt sự thức.

Những hình bóng hiện trong gương gọi là phân biệt sự thức. Phật dụ chân thức như cái gương, ánh sáng của gương dụ cho hiện thức, gương có ánh sáng nên những hình ảnh bên ngoài phản chiếu vào, cái ảnh hiện trong đó hoặc cao, thấp, trắng, đen, xấu, tốt đều gọi là phân biệt sự thức. Vậy thì sự phân biệt không rời ảnh hiện, ảnh hiện không rời gương. Gương, ánh sáng, bóng trong gương không rời nhau, tuy nói ba mà không phải ba.

Về thức thể thì phàm thánh không hai, mà tác dụng mê ngộ vẫn phân. Phật tánh dường như bị lưu chuyển, tợ thuyền đi thấy bờ chạy, đều không có sự thật.

Chúng ta ngồi trên thuyền thấy dường như bờ sông chạy ngược, ngồi trên xe thấy xe không chạy mà gốc cây chạy. Đó là cái thấy sai lầm mà tất cả chúng ta có bệnh chung như vậy. Tất cả sự thấy hiểu của mình đều bị quay cuồng theo ngoại cảnh, nhưng ai cũng cho là mình thấy thật. Đa số vì chấp ngã, vì thấy ta là thật nên cho rằng tất cả những gì ta thấy nghe hiểu biết đều đúng chân lý. Có hai người thì có hai chân lý, nhiều người thì nhiều chân lý, ai cũng bênh vực phần mình, từ đó sanh ra tranh đấu, đau khổ. Không biết rằng tất cả đều giống như người ngồi trên thuyền thấy bờ chạy, tất cả đều không có lẽ thật. Biết được chỗ này đôi khi chúng ta tức cười cho cuộc sống thế gian.

Đại Huệ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại lần lượt làm nhân nhau.

Một bên hoại, một bên chẳng hoại vẫn lần lượt làm nhân cho nhau.

Hiện thức và phân biệt thức đều có hai tướng hoại và chẳng hoại. Chẳng phải riêng hiện thức là chẳng hoại, mà cho phân biệt thức là hoại.

Giữa hiện thức và phân biệt sự thức, thì phân biệt sự thức là cái tạm ở ngoài, nhưng cả hai đều có tính chân. Như thí dụ hình ảnh, ánh sáng và mặt gương. Gương thật, ánh sáng tương đối cũng thật, hình ảnh chỉ là bóng phản chiếu không thật. Bóng không rời gương, như vậy nên biết giả không rời thật. Phân biệt sự thức là tướng bên ngoài, cũng không rời chân thật. Chúng ta đừng nghĩ rằng các thức nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt... không chân thật, chính nhà thiền khai thác chỗ chân thật của các thức đó. Hiểu vậy mới thấy ý chỉ kinh này liên hệ đến thiền tông.

Cái tướng hoại của hiện thức, là các thứ không thật, các thứ hư vọng ấy vậy. Cái tướng hoại của phân biệt thức là tất cả căn thức. Tướng sai biệt của hai thức này do đó nói là hoại. Song trong chỗ sai biệt vốn có chân tướng không sai biệt. Do bất giác từ vô thủy nên không sai biệt ẩn, mà sai biệt hiện.

Vì bất giác nên không sai biệt ẩn mà sai biệt hiện. Như hiện giờ chúng ta có cái không sai biệt sẵn nơi sáu căn mà không thấy, không nhớ, cứ sống theo cái sai biệt, nên cái kia ẩn, không phải là không có.

Sai biệt đã hiện thì không sai biệt càng ẩn, nên nói lần lượt làm nhân nhau.

Nếu cái này hiện tỏ rõ chừng nào, thì cái kia càng ẩn khuất chừng ấy.

Nếu riêng cho hiện thức là chẳng hoại thì thức lưu chú giả dối lầm nhận là nhân chân thật.

Bởi hiện thức là thức lưu chú, thức lưu chú không hoại thì nó là nhân chân thật sao?

Nếu riêng cho thức phân biệt là hoại thì khi căn trần hội họp cái gì làm đối hiện.

Nếu nói rằng phân biệt sự thức sanh diệt là hoại, thì khi gặp cảnh làm sao nó hiện được, làm sao phân biệt được. Như vậy trong cái hoại đã ngầm có cái không hoại.

Thế mới biết, khi mê thì nhân tướng của hai cái hoại đành rành. Khi ngộ thì lặng lẽ của nhất chân tỏ rõ. Nếu rõ nguyên do tàng thức, chuyển thức, mới tin trở lại chân thì vọng diệt.

Hiểu được nghĩa tàng thức, chuyển thức rồi, biết rằng khi trở về chân thì vọng diệt, hay ngược lại khi vọng diệt thì trở về chân.

Đại Huệ! Về bất tư nghì huân và bất tư nghì biến là nhân của hiện thức.

Trong đây nói về huân và biến của hiện thức không thể nghĩ bàn.

Hiện thức tức là nhất chân thức. Chân như không tánh niệm niệm bất giác huân thành vô minh. Do đây tam tế đồng thời biến hiện. Đây là nhân tướng huân biến không thể nghĩ bàn. Như trùng đục cây bỗng nhiên thành chữ, vốn chẳng có thật tánh.

Như thí dụ mặt hồ. Mặt hồ nguyên là phẳng lặng, khi gió thổi thì nổi sóng. Một lượn sóng nổi lên, những lượn sóng khác theo đó dồn dập đuổi nhau, cái này rượt cái kia, cái kia đuổi cái nọ lớp lớp chập chùng, đó là huân biến không thể nghĩ bàn.

Nói về tâm niệm của chúng ta, khi sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sanh sáu thức lưu giữ trong hồ tâm. Những âm thanh hình ảnh đã qua luôn huân biến chập chồng. Như buổi sáng thấy hai người cãi cọ đánh nhau, buổi chiều hình ảnh đó lại hiện ra, nếu mình bỏ phứt đi thì thôi. Còn vừa nhớ lại thì hình ảnh tiếp tục trồi lên, ý niệm theo đó phân tích người này phải, người kia trái rồi tự mình phát sanh giận ghét hay bênh vực, lớp này chồng lên lớp kia. Cứ hiện ra rồi huân lại, huân thêm sâu thì nhớ hoài không bỏ. Bởi vậy tập khí nào, hình ảnh nào cứ ôn đi ôn lại thì chúng ta theo đó xoay chuyển. Chuyện gì mình ưa hay ghét cũng kể nhiều lần, người này nghe, người khác nghe, tô đậm thêm điều mình ưa hoặc ghét. Bởi vì đã huân vào thì phải hiện ra, để một mình chịu không nổi. Đã thốt ra lời rồi thì huân trở lại dồn dập không cùng gọi là bất tư nghì huân, bất tư nghì biến.

Đại Huệ! Nhận lấy các trần cảnh và vọng tưởng huân tập từ vô thủy là nhân của phân biệt sự thức.

Phân biệt sự thức là thức thứ sáu và năm thức trước đều lấy vọng tưởng huân tập làm nhân.

Phân biệt sự thức cũng là nhất chân thức. Do sáu trần bên ngoài dẫn phát chủng tử tập khí kiến phần bên trong, cho bảy thức trước là thật ngã thành nhân tướng của phân biệt sự thức.

Duy thức học chia ra: kiến phần, tướng phần, tự chứng phần và chứng tự chứng phần. Kiến phần là phần hay thấy, tướng phần là phần bị thấy, tự chứng phần là phần bên trong bao gồm cả kiến phần và tướng phần. Đây chỉ nói qua thôi.

Đâu biết do mê chân tâm mà làm vọng tưởng, biến nội thức dường như hiện tiền.

Do mê chân tâm chạy theo vọng tưởng, vì vọng tưởng nên biến nội thức dường như có hiện tiền.

Lại chấp nhận cái hiện tiền ấy mà phát huy hư vọng.

Chúng ta lại chấp những phân biệt hiện tiền cho nó là thật, nên càng phát huy hư dối.

Kinh Lăng-nghiêm nói: “Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành pháp huyễn”.

Tự tâm chúng ta dấy động, rồi chúng ta giữ lấy phần dấy động của tự tâm, tức là phần thức. Các pháp không phải huyễn mà biến thành huyễn là tại chỗ đó.

3. CHỈ NGỘ CHÂN CHẲNG DIỆT

Khi ngộ rồi thì chân tướng không diệt, chỉ có diệt nghiệp tướng, chuyển tướng.

Đại Huệ! Nếu trở lại chân thức thì các thứ chẳng thật, các thứ hư vọng ấy diệt, tức là tất cả căn thức diệt, thế thì danh tướng diệt.

Tự mê chân thức làm hiện thức, chân như Phật tánh, bởi bất giác mà khởi ra kiến phần tướng phần các thứ hư vọng chẳng thật.

Khi chúng sanh mê chân thức thì chân thức thành ra hiện thức, vậy nên chân như Phật tánh sẵn có, bởi bất giác khởi ra kiến phần, tướng phần, các thứ hư vọng chẳng thật. Kinh Lăng-nghiêm nói: Cái giác minh do khởi ra minh giác thành có năng sở. Kinh này nói cũng giống như vậy. Kiến phần là năng, tướng phần là sở. Tất cả chúng sanh đều có sẵn chân như Phật tánh nhưng vì bất giác khởi ra năng kiến sở kiến, từ đó các thứ hư vọng sanh khởi liên miên không dừng.

Do đây căn thức lưu chuyển hằng không tự giác.

Khi khởi vọng thì căn thức cứ mãi lưu chuyển không thể tự giác ngộ để trở về.

Bỗng nhiên biết trở về thì các thứ hư vọng như nước sôi chế trên băng, căn trần thức tâm đồng thời tiêu sạch.

Một phen tỉnh ngộ biết trở về thì các thứ hư vọng giống như nước sôi chế trên băng. Ba thứ, căn là thân, trần là cảnh, thức tâm là phân biệt, đồng thời tiêu sạch. Tức là khi ngộ trở về chân thật thì tất cả các tướng hư dối lưu chuyển tan biến.

Đến đây chỉ có chân thức lại không còn thức nào khác. Các thứ hư vọng chẳng thật là chỉ cho tướng của tám thức.

Tướng của tám thức là các thứ hư vọng nên có sanh diệt. Tánh của nó là thể Như Lai tàng nên không sanh diệt.

Căn thức là thức tướng của bảy thức trước. Sanh là thức lưu chú sanh trước. Diệt là các tướng diệt trước.

Khi chúng ta đang ở trong mê thì không biết được chỗ phát sanh từ bất giác khởi ra các thức lưu chú. Trên con đường diệt thì chúng ta diệt cái gì trước? Diệt những tướng hư vọng của thức, tức là những phân biệt vọng tưởng.

Trong lúc trở về chân liền đó được tròn khắp, lại không có thứ lớp.

Thể chân thật nơi mình sẵn có, chỉ tại mê chạy theo vọng nên quên chân. Bây giờ tỉnh giác bỏ vọng trở về chân thì cái chân đó là mới dựng lập hay đã sẵn đủ? Nó đã đầy đủ trước rồi, nên nói liền đó tròn khắp.

Song đốn ngộ và tiệm trừ căn và dục không phải là một, chẳng ngại cũng còn hành bố (tiệm tu).

Đốn ngộ liền biết cái nào vọng cái nào chân, nhưng khi tiệm trừ thì từ từ do căn và dục. Căn là căn cơ, dục là mong muốn, không phải một mà nhiều sai biệt. Bởi căn cơ sai biệt nên phải tu tập dần theo thứ lớp. Như tất cả chúng ta ai cũng biết nóng giận là xấu nhưng muốn bỏ không phải bỏ liền được. Cũng không phải biết tham si là xấu thì hết tham si liền. Muốn bỏ những thói xấu cũng phải trầy da tróc vảy, năm phen mười lượt sám hối, lâu rồi nó mới mòn mới giảm. Có người bỏ mau, có người bỏ lâu là để chỉ cho căn dục của chúng sanh sai biệt.

Đại Huệ! Thức tương tục diệt, bởi nhân tương tục diệt thì thức tương tục mới diệt. Do chỗ theo diệt và duyên diệt nên thức tương tục diệt.

Nhân tương tục là chỗ tương tục của thức, nên câu sau nói: do chỗ theo diệt và duyên diệt nên thức tương tục diệt.

Đại Huệ! Bởi tại sao? Vì là chỗ nương theo của nó. Chỗ nương theo của nó là vọng tưởng từ vô thủy huân tập. Duyên, là kiến v.v... thức cảnh vọng tưởng của tự tâm.

Phật chỉ cho chúng ta thấy cụ thể vô cùng. Chỗ nương theo của thức tương tục là vọng tưởng từ vô thủy huân tập. Chỗ duyên của nó là kiến phần tướng phần, tức là cái hay thấy cảnh và cảnh bị thấy. Chỗ nương là vọng tưởng diệt và không theo duyên bên ngoài thì thức tương tục diệt.

Tương tục tức là lưu chú. Lưu chú do các thứ tướng hư vọng chẳng thật làm nhân, đây là vọng tưởng từ vô thủy huân tập.

Chính vì chúng ta theo vọng tưởng nên dòng tâm thức cứ lưu chuyển liên miên. Khi không theo vọng tưởng nữa thì dòng tâm thức dần dần dừng lại. Vọng tưởng là cái huân tập từ vô thủy, đó là chỗ nương của thức lưu chú, khi chỗ nương đó dứt thì thức lưu chú theo đó lặng lẽ. Thức đó lấy gì làm tướng?

Lấy tướng tất cả căn thức làm duyên, đây tức là kiến v.v... thức cảnh vọng tưởng của tự tâm.

Chúng ta có hai cách tu. Ban đầu ứng dụng bằng cách thấy nội tâm, vọng tưởng là hư dối để không theo. Đó là chỗ nương của thức lưu chú dừng. Kế đó sáu căn đối với sáu trần, luôn luôn xem trần là hư dối như huyễn không thật. Như vậy ngoài thấy cảnh không thật để cho duyên của thức dừng, bên trong chỗ nương dứt thì đó là cái cớ để cho dòng thức lưu chú dừng. Dòng lưu chú dừng tức là trở về chân thức, nói theo kinh này, theo chỗ khác thì đó là Phật tánh.

Nhân diệt thì lưu chú tự diệt. Nhân của chỗ theo diệt nên duyên cũng diệt. Nhân duyên thảy diệt nên lưu chú tự diệt. Tóm lại, mê thì chân biến thành lưu chú. Bởi vì Như Lai tàng chẳng giữ tự tánh, không thể tự trở lại.

Thí dụ mặt nước hồ đang yên lặng, bỗng có một cơn gió thổi. Mặt nước không thể giữ thể bằng phẳng của nó nên khi gió thổi thì dậy sóng. Khi dấy sóng lên nó cũng không tự làm cho sóng dừng. Muốn sóng dừng phải đợi gió dừng. Cũng vậy, khi chúng ta mê, Như Lai tàng bất giác biến thành thức lưu chú, từ chân biến thành ra vọng. Muốn trở về chân thức hay Như Lai tàng thì phải buông vọng tưởng và các duyên bên ngoài, tự Như Lai tàng không thể trở về. Vì vậy người tu phải dùng trí quán chiếu để trở về, nếu không trí quán chiếu đó thì không buông vọng, không thấy cảnh giả, sóng thức không dừng thì chân thức không hiện.

Nhiều người không hiểu, nói rằng nếu còn thấy vọng biết vọng thì còn đối đãi, chưa phải là cứu cánh của thiền. Nhưng trong giai đoạn đầu ứng dụng tu cần đối đãi đối trị. Trong mười mục chăn trâu, lúc đầu phải trải qua những trận tranh hùng với con trâu, đến khi thắng nó rồi cũng chưa phải là hết đối đãi. Đến giai đoạn thứ tám trâu và người cùng quên, giai đoạn thứ chín mất trâu, giai đoạn cuối mới là dứt bặt đối đãi. Chúng ta thấy như pháp tu Tịnh độ, lúc đầu cũng có năng sở, pháp tu thiền thoại đầu lúc đầu cũng vậy. Ban đầu pháp tu nào cũng mượn hình tướng năng sở đối đãi để mà điều trị, đến khi thuần rồi thì mất sở còn năng, cuối cùng cả năng cũng bỏ luôn, lúc đó thể nhập tánh chân thật. Nói vậy để hiểu rõ lối tu của chúng ta hiện nay.

Tánh lưu chú này động liền sanh kiến, tướng gọi là hư vọng, lại lấy cái hư vọng làm chỗ nương.

Thức lưu chú dấy động liền sanh kiến phần tướng phần, đó là hư vọng. Thí dụ khi tâm mình dấy động nhớ lại hình ảnh Sài Gòn. Hình ảnh đó là cảnh, là tướng phần. Cái tâm hay nhớ là kiến phần. Hai phần đó đầy đủ trong tâm. Song kiến tướng đó đều là hư vọng, ở đây gọi chung là vọng tưởng. Lấy cái vọng đó làm chỗ nương, vì vậy thức lưu chú cứ mãi trôi lăn.

Thức tánh mênh mang mà không chỗ tựa nương. Bèn lấy kiến, tướng vọng động của chính mình làm chỗ dựa nhờ, nên gọi là nhân nương.

Tánh của thức mênh mang không biết nương vào đâu bèn nương vào tướng phần, kiến phần vọng động của chính nó, gọi là nhân nương tựa. Chỗ này nói thí dụ cho dễ hiểu. Như cái gương sáng, nếu ở ngoài có chậu kiểng hay đồng hồ, lúc đó mình thấy gương sáng hay thấy chậu kiểng đồng hồ? Ánh sáng của gương mênh mông không có tướng, còn bóng của chậu kiểng đồng hồ thì có tướng. Chúng ta tựa vào tướng đó nên dễ thấy hơn.

Hợp pháp lại, con mắt lỗ tai của mình hằng nghe thấy nhưng vừa thấy cảnh nghe tiếng thì chúng ta chỉ nhớ cảnh nhớ tiếng. Cái hay nghe, hay thấy thênh thang không có chỗ nương nên chúng ta nương theo bóng của cái nghe, cái thấy làm điểm tựa. Vì vậy cứ đuổi theo bóng, tức theo vọng tưởng. Thể chân thật không lúc nào vắng mặt, mình lại không nương mà chỉ nương cái bóng giả dối. Suốt ngày đuổi theo vọng tưởng giả dối nên thức lưu chú sanh diệt không dừng.

Nương theo hư vọng này biến in tuồng có căn thức, lại lấy căn thức làm duyên, thức tánh mênh mang không có chỗ dẫn phát. Bèn lấy căn thức của mình biến hiện làm chỗ dạo chơi, nên gọi là duyên hiện.

Bệnh của chúng ta là quen dạo chơi trong những cái bóng của sáu thức. Nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý duyên với sáu trần có những cái bóng thế này thế nọ, chúng ta cứ chạy ngược chạy xuôi đuổi theo chúng. Đến giờ ngồi thiền đóng hết năm cửa, chỉ còn cửa ý thức mà cũng còn dạo chơi không dừng.

Mới biết hai tướng nhân duyên nuôi lớn thức lưu chú.

Duyên là bóng sáu thức, nhân là vọng tưởng, làm cho thức lưu chú tăng trưởng lên hoài.

Hai tướng có thể hoại mà chân tướng của thức lưu chú chẳng hoại, chỉ tại trong mê không thể tự giữ.

Hai tướng có thể hoại là hai tướng nhân và duyên của thức, còn chân tướng của thức lưu chú chẳng hoại, chỉ khi đang mê mình không thể tự giữ được.

Vì thế, chỉ gọi là lưu chú chẳng gọi là chân. Nên có khác là trở lại và không trở lại.

Nếu trở lại thể tánh của nó là chân, không trở lại mà theo dòng biến diệt của nó là vọng là lưu chú.

Cho nên ngộ thì lưu chú liền chân, bỗng nhiên biết đường trở về, chóng quên chỗ nương tựa.

Bỗng nhiên biết đường trở về, chóng quên chỗ nương tựa. Đường trở về chỉ là không theo vọng tưởng. Biết vọng tưởng hư dối đó là ngộ, ngang đó thức lưu chú trở thành chân, vì không theo vọng tưởng nên nói chóng quên chỗ nương tựa.

Như chúng ta đang quay mặt đi ra đường, tức là đang xa dần ngôi chùa. Con đường đó càng đi càng xa chùa, cũng như mình mê đi theo dòng thức lưu chú. Khi biết đi như vậy là sẽ xa quê hương, xa chùa chiền, chúng ta liền quay lưng đi ngược lại, càng đi càng về gần ngôi chùa. Như vậy là có hai đường hay một đường? Chỉ một đường không có hai. Cũng vậy, chúng ta do lúc trước bất giác mà dòng thức lưu chú biến hiện khởi vọng tưởng, từ đó sanh diệt triền miên. Bây giờ biết vọng tưởng là nguyên nhân sanh tử nên không theo nó nữa. Theo vọng tưởng tức là chạy ra, không theo nó tức là trở vào, không có hai đường mà mê ngộ khác nhau. Kiểm nghiệm kỹ chúng ta thấy việc tu quá rõ, không có gì xa lạ. Người ta cứ nghĩ tu là phải làm chuyện này chuyện kia, sự thật chỉ cần biết là không theo vọng tưởng. Nhìn lại thế gian có bao nhiêu người tỉnh, không chấp nhận vọng tưởng? Chúng ta ở đây có một số người biết vọng không theo, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn bị nó lôi chạy mịt mù!

Bổn phận người tu là phải phân biệt giữa mê và ngộ, làm sao để trở về với chân thức mà không bị lưu chuyển. Ngay hiện tại đang ngồi thì biết là đang sống từng niệm tỉnh giác. Bao nhiêu chuyện quá khứ hôm qua hôm kia chỉ là ảo ảnh, chỉ là bóng trong tâm hiện ra. Nếu cứ rủ nhau kể chuyện quá khứ, thời oanh liệt đã qua của mình thì đó là một tràng mộng ảo. Chúng ta biết được mê vọng hư dối là đã tỉnh, cần phải tỉnh thường xuyên.

Do đó Bồ-tát có ra đời chẳng nhờ duyên mà hiện.

Bởi vì các ngài theo sở nguyện, không phải bị duyên vọng tưởng lôi mà hiện, nên nói chẳng nhờ duyên mà hiện.

Nên nói tướng diệt mà lưu chú đến đây mới cứu cánh diệt.

Tướng đây là tướng vọng động và tướng căn trần. Tướng này diệt trước, khi hết vọng tưởng thức lưu chú mới rốt ráo diệt.

Bởi vì mê thì hai tướng hoại và chẳng hoại lần lượt làm nhân.

Tướng chẳng hoại là chân, tướng hoại là hư dối, đang khi mê thì hư dối và chân thật lần lượt làm nhân cho nhau không dừng. Như ngủ mộng, tỉnh rồi mộng tiếp.

Ngộ thì lưu chú cùng với tướng lẫn nhau giải thoát.

Khi ngộ thì thức lưu chú và tướng các thức khác đều được giải thoát, tức là không còn bị lôi cuốn trong sanh diệt nữa mà trở về chỗ chân thật.

Song cốt tại mê ngộ vọng phân, chứ chân tánh không khác.

Đứng về chân tánh thì xưa nay không khác nhưng vì có mê, có ngộ mà vọng phân biệt sanh diệt và chẳng sanh diệt.

Chỗ này là lý do khiến người trí đương nhiên tự hợp.

Người trí thấy rõ nơi mình có cái sanh diệt và không sanh diệt. Không chạy theo sanh diệt tức là sống với cái không sanh diệt. Lục tổ khi nhận ra cái đó rồi thì ngài sống mãi với nó, không phải như chúng ta biết có cái không sanh diệt mà không chịu sống với nó, cứ chạy theo sanh diệt hoài. Đó là chỗ dở.

Này Đại Huệ! Ví như khối đất với vi trần chẳng khác, chẳng phải chẳng khác, vàng và các món đồ trang sức cũng lại như vậy. Đại Huệ! Nếu khối đất và vi trần khác thì không phải do vi trần làm thành, mà thật do vi trần làm thành, thế nên chẳng phải khác. Nếu chẳng khác thì khối đất và vi trần nên không sai khác.

Đức Phật dùng hai thí dụ: khối đất và vi trần, vàng và các đồ trang sức. Một khối đất là do kết tụ nhiều vi trần mà thành, như vậy vi trần và khối đất là một hay là khác? Nếu nói một thì vi trần nhỏ mà khối đất to. Nếu là khác thì khối đất không do vi trần làm thành.

Thí dụ thứ hai: Năm, mười món đồ trang sức vòng, xuyến... toàn bằng vàng, nhìn trên tướng thì khác, nhìn trên thể vàng thì không khác. Người nói khác là người mê nhìn trên tướng mà không biết cái thể của nó. Cũng vậy, khi mê tạm đặt nhiều tên: tàng thức, mạt-na thức, ý thức, nhãn thức... Khi dừng được vọng tưởng sanh diệt thì lúc đó chỉ là chân thức hay chỉ là Tâm, không có nhiều thứ.

Đây là dụ chân tướng của tàng thức cùng chuyển thức chẳng phải một chẳng phải khác, để rõ chuyển thức diệt mà chân tướng của tàng thức chẳng diệt. Ngoại đạo chấp đoạn kiến chỉ vì không biết nhân sanh của thức lưu chú.

Sở dĩ ngoại đạo nói rằng nếu các thức diệt hết thì không còn gì, vì họ không biết cái nhân sanh của thức lưu chú, nhận đó là chân thức.

Cho nên, giữ chân thì cùng vọng đồng thu, bỏ vọng thì gồm chân cùng bỏ. Khi mê ngộ chưa phân, lúc ấy một, khác khó nói vậy.

Nếu nghe nói rằng trong thức lưu chú hay trong cái thấy cái nghe có thể chân thật, vậy khi khởi thấy phân biệt lăng xăng mình cũng nói là chân, đó là chân vọng đồng thu. Còn nói rằng thấy nghe không phải là chân, bèn bỏ luôn không muốn thấy nghe, muốn nhắm mắt bịt tai, đó là bỏ vọng gồm luôn chân. Bởi vì khi mê thì nói đâu chấp đó. Chúng ta cần hiểu rằng thấy nghe là chân thật khi không có vọng chen, thấy nghe là bệnh khi đi theo vọng thức.

Kinh Lăng-nghiêm nói Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn. Như vậy không phải có hai tri kiến. Thấy biết mà không khởi vọng tưởng thì đó là Niết-bàn, thấy biết mà khởi vọng tưởng chấp thấy biết thì đó là gốc vô minh. Hiểu rõ như vậy chúng ta không rơi vào lỗi, hoặc cho tất cả là tri kiến Phật rồi thu hết thấy nghe vọng chấp, hoặc cho tri kiến là lỗi rồi nhắm mắt bịt tai, muốn trốn thiên hạ.

Như thế, Đại Huệ! Chuyển thức và chân tướng của tàng thức nếu khác thì tàng thức không phải là nhân. Nếu chẳng khác thì chuyển thức diệt tàng thức cũng phải diệt, mà chân tướng của nó thật chẳng diệt.

Chuyển thức là bảy thức trước, tàng thức là thức thứ tám. Hai cái đó khác hay không khác cũng như vi trần và khối đất. Nếu chẳng khác thì chuyển thức diệt, tàng thức cũng phải diệt; nếu khác thì hai cái không làm nhân cho nhau.

Thế nên, Đại Huệ! Chẳng phải tự chân tướng thức diệt, chỉ nghiệp tướng diệt. Nếu tự chân tướng thức diệt thì tàng thức ắt diệt. Đại Huệ! Nếu tàng thức diệt thì chẳng khác với ngoại đạo luận chấp đoạn kiến.

Nếu nói tàng thức diệt thì đó là đoạn kiến. Như khi chúng ta tu thấy bao nhiêu vọng tưởng lăng xăng là vô nghĩa lý. Ngồi thiền muốn cho yên định, mà cứ lảm nhảm nói một mình, khởi nghĩ cái này, nhớ cái kia toàn là những câu độc thoại. Giờ ngồi thiền không yên chúng ta rất bực bội. Có một hạng ngoại đạo chủ trương diệt tận gốc mọi vọng tưởng, kềm hoặc đè, ngồi nhắm mắt không cho vọng tưởng, tư tưởng hoặc cảm thọ dấy lên, như cây khô. Họ cho diệt tận như vậy mới là chấm dứt mọi đau khổ. Đó là luận chấp đoạn kiến, như chúng ta ghét vọng tưởng nên muốn dứt sạch không cho khởi. Không biết rằng khi vọng thức hết thì tàng thức trở về chân, không phải đoạn diệt như ngoại đạo chấp lầm.

Trước nói hiện thức tức ở đây tàng thức, trước phân biệt sự thức ở đây là chuyển thức. Tàng thức vốn cùng với chuyển làm nhân sanh khởi, nên chẳng phải khác. Song chân tướng tàng thức chẳng cùng chuyển thức đồng diệt, nên chẳng phải chẳng khác.

Vàng và các đồ trang sức, đứng về tướng thì khác, đứng về thể thì chẳng khác. Nói vậy để cho thấy rõ cái sanh diệt và cái không sanh diệt chẳng khác cũng chẳng phải chẳng khác.

Khi mê thì chân biến làm tàng, chân tướng hằng ở trong nghiệp tướng.

Khi mê thì chân biến vọng, vọng thì tạo thành nghiệp, vì vậy chân tướng ở trong nghiệp tướng.

Lúc ngộ thì tàng vốn chân, nghiệp tướng liền tiêu dung trong tự chân.

Khi ngộ biết tàng thức là thể chân, không chạy theo nghiệp tướng, nghiệp tướng liền tiêu dung trở về chân tướng.

Cho nên nghiệp nhân mê mà có, tàng do ngộ mà dẹp trừ.

Tàng thức do ngộ mà dẹp trừ, tức là trừ những chủng tử được chứa ở trong.

Khi dị thục không thì tàng thức cũng diệt, mà tự chân tướng chẳng diệt.

Dị thục tức là Dị thục thức. Thức thứ tám hay tàng thức khi chứa chủng tử, chủng tử đó chỉ là nhân, lúc kết thành quả phải đợi thời gian, lúc kết quả khác lúc còn chủng tử, nên gọi là dị thục. Ở đây nói khi dị thục không là tất cả những chủng tử được chứa không còn thì tàng thức cũng diệt. Khi còn hạt giống trong kho, thì có tên gọi là cái kho, khi không còn hạt giống nào thì tên kho chứa cũng mất. Những chủng tử chứa trong tàng thức hết, tên tàng thức không còn mà tự chân thức chẳng diệt. Chân tướng là thực thể của thức vốn là Như Lai tàng y nhiên không sanh diệt. Sanh diệt là chủng tử dị thục, không sanh diệt là thể thật. Vì không sanh diệt nên nói chân tướng chẳng diệt.

Luận nói: “Nói là diệt chỉ tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt.” Lại nói: “Chỉ vì si diệt nên tâm tướng theo diệt.”

Nói diệt tức là diệt tướng vọng tưởng của tâm, không phải diệt thể của tâm. Diệt hết si mê thì tướng tâm cũng theo đó mà diệt. Làm sao diệt si mê? Đừng mê lầm cho vọng tưởng là tâm mình, mê lầm hết thì vọng tưởng lần lần hết. Nếu còn cho những cái nghĩ đó là tâm mình thì gọi là si, còn si thì dòng vọng tưởng không bao giờ dừng. Biết rõ dòng vọng tưởng không thật, đó là diệt cái si, các vọng tưởng khởi thành tướng trong tâm theo đó từ từ diệt.

4. CHỈ RA TÀ KIẾN ĐOẠN KIẾN DỊ NHÂN

Đại Huệ! Các ngoại đạo kia khởi luận thế này: “Cảnh giới nhiếp thọ diệt, thức lưu chú cũng diệt”. Nếu thức lưu chú diệt thì lưu chú từ vô thủy lẽ ưng cũng đoạn. Đại Huệ! Ngoại đạo nói lưu chú làm sanh nhân, chẳng phải do nhãn thức, sắc, ánh sáng nhóm họp mà sanh, lại có dị nhân. Đại Huệ! Về nhân kia, họ nói hoặc là thắng diệu, hoặc là sĩ phu, hoặc tự tại, hoặc thời, hoặc vi trần.

Đó là những danh từ do ngoại đạo chấp, sau đây ngài Hàm Thị sẽ giải thích rõ.

Cảnh giới nhiếp thọ là các thức thu góp các trần tướng. Khi tướng này diệt, thức lưu chú vẫn tiềm phục. Người lầm không biết vọng thấy không lặng, bèn cho là đoạn.

Người tu đến chỗ rỗng không, yên lặng cho đó là hết sạch, là đoạn dứt, thành ra đoạn kiến, mà không biết vẫn còn thức lưu chú tiềm phục.

Họ không biết tướng mê của lưu chú từ vô thủy có thể trừ, mà tự chân tướng không đoạn.

Tôi thường nói, khi chúng ta ngồi yên năm mười phút bỗng thấy tâm không dấy động, có người hoảng hốt tưởng mất mình, như vậy cho đó là đoạn. Sự thật nếu mất mình thì lúc đó ai biết rỗng không? Có câu chuyện nghe như trẻ con mà tôi thấy thú vị. Tổ Già-da-xá-đa là tổ thứ 18 của Thiền tông Ân Độ, một hôm đi du hóa, gặp một người Bà-la-môn hỏi thị giả: “Thầy đây là người gì?” Thị giả đáp: “Là đệ tử Phật.” Người ấy liền chạy thẳng về nhà đóng cửa lại. Vì Bà-la-môn nghe nói đến Phật thì sợ lắm. Tổ bèn đi theo, đến nhà gõ cửa. Trong nhà có tiếng vọng ra rằng: “Nhà này không có người.” Tổ hỏi: “Đáp không người đó là ai?” Bà-la-môn nghe hiểu nên mở cửa ra, từ đó phát tâm theo Tổ. Người tu mình lầm chỗ này, khi vọng tưởng lặng thì cho là không còn gì. Ngoại đạo tà kiến cũng vậy. Vì không thấy tận tường cái chân thật, chỉ theo mê vọng. Mê vọng dừng cho là đoạn diệt.

Bởi vì chân thức huân biến mà không hay tự giữ, theo duyên lập bày. Duyên trước đã dứt, duyên sau tiếp khởi, chân thức ở trong ấy thầm tự vượt qua.

Vọng tưởng theo duyên, duyên trước dứt, duyên sau khởi tiếp. Khi chúng ta ngồi thiền hay ngồi chơi cũng vậy, chuyện này vừa qua chuyện sau liền tiếp theo, chuyện sau qua rồi chuyện sau nữa tiếp tới, cứ như vậy mãi mãi không dừng. Trong khi vọng tưởng sanh diệt không ngừng, chân thức vẫn thầm tự vượt qua, qua khỏi những đợt sanh diệt của các thức, nó là thể không sanh diệt. Khi các vọng thức sanh diệt có cái không từng sanh diệt ở trong, đó là chân thức.

Nên nói: “Nghiệp thức mênh mang không có gốc để nương tựa”, tức là lưu chú này vậy.

Nghiệp thức mênh mang không có gốc để nương tựa là câu nói của tổ Quy Sơn. Ở Quy Sơn, tổ hỏi Ngưỡng Sơn: “Chúng sanh trên quả đất nghiệp thức mênh mang, không gốc có thể tựa, con làm sao biết họ có cùng chẳng có?” Ngưỡng Sơn thưa: “Con có chỗ kinh nghiệm.” Liền đó có vị tăng đi qua, Sư gọi: “Xà lê!” Vị tăng xoay đầu lại. Sư thưa: “Bạch Hòa thượng, cái này là nghiệp thức mênh mang, không có gốc để tựa.”

Lưu chú vốn chân, bởi mê mới có nhãn thức, sắc trần, ánh sáng, cùng nhau sanh trụ, ngoại đạo lầm cho là thắng diệu thành ra dị nhân.

Ngoại đạo cho đó là thắng diệu, bởi vậy nên thành ra nhân khác, họ không biết cái gốc từ mê vọng thức mà ra.

Đậu, bắp chẳng phân, quả nhiên đồng với sanh diệt. Nhân chẳng phải nhân chân, rốt cuộc trở về đoạn kiến. Xét về Số luận sư chấp hai mươi lăm đế phân làm chín vị, do trước kia tiên nhân Hoàng Xích chuyên tu thiền định có sức thần thông, biết được việc trong tám muôn kiếp.

Tiên nhân ngoại đạo có thần thông biết được tám muôn kiếp về trước. Như vậy, ngoại đạo đâu phải nói suông, họ cũng có cái thấy nhưng bị giới hạn, thấy chỗ nào đó rồi chấp cứng nên không giải thoát.

Tám muôn kiếp về trước mờ mịt không biết, lầm cho là minh sơ tự tánh, nên vị thứ nhất gọi là Minh sơ cũng gọi là Thắng tánh.

Chỗ nào biết thì sáng tỏ, chỗ nào không biết thì mờ mờ. Cũng như chúng ta ra biển buổi sáng hoặc buổi chiều trời yên, tầm mắt mình nhìn xa trên mặt biển chừng mười lăm km. Quá tầm mắt đó thì mình thấy hình như chân trời tiếp với mặt biển. Cái thấy đó có đúng sự thật không? Chỉ vì nó quá tầm mắt, mình tưởng là chân trời, nếu đi tới nữa thì không phải. Như vậy ngoại đạo biết được tám muôn kiếp, quá tám muôn kiếp thấy mờ mờ nên gọi là Minh sơ, cho đó là cái gốc. Từ gốc đó sanh ra các pháp sau này.

Vị thứ hai là Trí đại cũng gọi là Giác đại. Mé minh sơ có giác tri tăng trưởng, nên nói từ minh sanh giác.

Từ minh sơ sanh giác, vì không biết mé trước nên chỗ nào biết gọi là giác.

Ba là Ngã tâm, cũng gọi là Ngã chấp ngã mạn. Đây do giác mà có, nên nói từ giác sanh ngã tâm. Bốn là Ngũ duy lượng, cũng gọi là Ngũ vi, tức là sắc thanh hương vị xúc. Bởi sắc v.v... do ngã chấp tâm hiện, nên nói từ ngã tâm sanh ngũ duy. Năm là Ngũ đại, tức là đất, nước, gió, lửa, không. Năm thứ này khắp tất cả chỗ nên gọi là đại. Do cực vi sanh nên nói từ ngũ duy sanh ngũ đại. Sáu là Ngũ tri căn, tức là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân. Nhân năm đại mà thành nên nói từ năm đại sanh. Bảy là Tác nghiệp căn, tức là miệng, tay, chân và đại, tiểu tiện. Năm cái này đều là dụng tạo nghiệp, cũng nhân năm đại mà thành. Tám là Tâm bình đẳng căn, chỉ quả tim hay ý căn. Bình đẳng vì căn này hay duyên khắp căn cảnh, cũng do ngũ đại làm thành, cùng với ngũ tri, ngũ tác nghiệp thành mười một căn. Chín là Thần ngã, chính là thức thứ tám. Ngoại đạo không biết thức thứ tám chấp làm thần ngã, hay sanh các pháp thường trụ chẳng hoại, thần ngã này tức là thắng diệu vậy.

Ngoại đạo cho thức thứ tám chứa chủng tử thiện ác, chấp đó là thần ngã không hoại.

Thắng luận sư chấp lục cú làm sanh nhân. Nghĩa là Thật, Đức, Nghiệp, Đại hữu, Đồng dị, Hòa hợp.

Sáu câu đó là nhân sanh ra muôn pháp.

Lại từ trong câu thật chấp có chín pháp là đất, nước, lửa, gió, không, thời, phương, ngã, ý. Thời tán ngoại đạo thì chấp tất cả pháp đều từ Thời sanh. Họ thấy cỏ cây do thời gian nở rụng tươi khô, chấp thời gian là thường là một, là nhân của vạn vật, là nhân của Niết-bàn.

Có ngoại đạo chấp thời gian là nhân sanh ra tất cả. Vì theo thời gian mọi vật sanh trưởng và đi đến hoại diệt. Thời gian chi phối tất cả, nên nói thời gian là gốc sanh ra muôn pháp. Mọi lối chấp đều có cái lý của nó.

Thuận thế sư thì chấp tất cả sắc tâm v.v... Các pháp đều dùng cái cực vi của tứ đại làm nhân. Song trong tứ đại có cái rất tinh linh hay có duyên lự tức là tâm pháp. Cực vi này tức là vi trần.

Ngoại đạo này chấp tất cả sắc pháp do cực vi làm nhân, trong tứ đại có cái tinh linh gọi là Tâm pháp.

Ngoại đạo Đồ khôi chấp trời Đại Tự Tại thể là thật, biến, thường, hay sanh các pháp.

Thật tức là chân thật, biến là khắp hết, thường tức là còn mãi.

Minh luận sư chấp Đại Phạm, thời, phương, bản tế, tự nhiên, hư không, ngã, bảy pháp này là thường trụ, hay sanh tất cả pháp. Đại Phạm này tức là sĩ phu vậy.

Danh từ sĩ phu là chỉ cho trời Đại Phạm.

Chỗ chấp của ngoại đạo tuy nhiều không ngoài thường kiến và đoạn kiến. Không phải thường chấp là thường cũng chung thành một đoạn kiến.

Cái không phải thường mà chấp thường cũng thuộc đoạn kiến.

Lại nữa, Đại Huệ! Có bảy chủng tánh tự tánh. Nghĩa là Tập tánh tự tánh, Tánh tự tánh, Tướng tự tánh, Đại chủng tánh tự tánh, Nhân tánh tự tánh, Duyên tánh tự tánh, Thành tánh tự tánh.

Đây là những danh từ chuyên môn, ngài Hàm Thị sẽ giải rõ.

Trước nói ngoại đạo dị nhân, đây nói rõ trong dị nhân có bảy thứ lập giáo, trọn chẳng ngoài tứ cú. Nghĩa là tự sanh, tha sanh, cộng sanh và vô nhân sanh.

Tứ cú là bốn câu: một là tự sanh, hai là tha sanh, ba là cộng sanh, bốn là vô nhân sanh.

Nhân tánh tự tánh tức là tự sanh. Đại chủng tánh tự tánh, Duyên tánh tự tánh tức là tha sanh. Tập tánh tự tánh, Tướng tánh tự tánh, Thành tánh tự tánh tức là cộng sanh. Tánh tự tánh tức là vô nhân sanh. Luận nói: “Vả lại Số luận chấp ngã là tư, thọ dụng, tát-đỏa, thích-xà, đáp-ma làm thành đại v.v... hai mươi ba pháp.” Tát-đỏa dịch là hữu tình, cũng dịch dũng mãnh. Thích-xà dịch là vi, lại dịch là ngưu mao đầu trần v.v... Đáp-ma dịch là ám (tối). Các nhà tân dịch đều dịch là tham sân si. Do tự tánh này, hiệp ba việc hay sanh các pháp, nên gọi Tập tánh tự tánh. Lại trong hai mươi lăm đế, thần ngã làm chủ hay sanh các pháp, thường trụ chẳng hoại, nên nói là Tánh tự tánh. Tướng tánh tự tánh là sáu câu của Thắng luận sư. Bởi thật, đức, nghiệp, đại hữu, đồng dị, hòa hợp làm nhân sanh khởi các pháp có tướng. Song trong sáu câu hòa hợp tức là thành Tánh tự tánh, đây là chấp các pháp hòa hợp làm tác dụng. Về Đại chủng tánh tự tánh, Thuận thế sư nói tứ đại là thường, hay sanh các pháp. Về Nhân tánh tự tánh, Duyên tánh tự tánh thì Thanh luận sư chấp có hai: một là đợi duyên sanh, cho rằng tiếng là nhân sanh các pháp; hai là đợi duyên hiển, cho rằng duyên sanh tiếng làm nhân.

Thanh luận sư là ngoại đạo chấp âm thanh. Họ chủ trương âm thanh sanh ra các pháp. Nếu các pháp có mặt mà không tiếng để đặt tên thì không thành các pháp. Đó là nghĩa thứ nhất. Một là đợi duyên sanh, cho rằng tiếng là nhân sanh các pháp. Hai là đợi duyên hiển, cho rằng duyên sanh tiếng làm nhân. Vì các pháp muốn thành hình phải do nghĩ suy phát ra âm thanh, phát ra âm thanh rồi tạo ra hình dáng. Thí dụ mình bảo ông thợ đóng cho cái bàn, âm thanh “đóng cho cái bàn” là duyên cớ để cái bàn có mặt. Như vậy các pháp đợi âm thanh phát ra mới thành tựu. Âm thanh là duyên các pháp.

Như Lai xét tột cùng chỗ chấp của ngoại đạo, để chứng thành dị nhân. Sau đó mới chỉ ra pháp chánh của ngài là đệ nhất nghĩa tâm. Do đó mới biện biệt người và ta vậy.

Người là chỉ cho các ngoại đạo chấp thế này, thế kia, ta là chỉ cho Phật, nói rõ các pháp do tự tâm mê mà ra, không có một pháp ngoài tâm.

5. CHỈ CHÁNH NHÂN ĐỂ BIỆN BIỆT TÀ VỌNG

Lại nữa, Đại Huệ! Có bảy thứ đệ nhất nghĩa. Tức là tâm cảnh giới, tuệ cảnh giới, trí cảnh giới, kiến cảnh giới, siêu nhị kiến cảnh giới, siêu tử địa cảnh giới, Như Lai tự đáo cảnh giới. Đại Huệ! Đây là tánh tự tánh đệ nhất nghĩa tâm của chư Như Lai Ứng cúng Đẳng chánh giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại.

Bảy thứ đệ nhất nghĩa này để giản trạch với bảy lối chấp của ngoại đạo. Cảnh giới chư Phật không ngoài tâm, cảnh giới ngoại đạo do chấp trước pháp ngoài tâm. Khác nhau chỗ đó.

Do Tánh tự tánh đệ nhất nghĩa tâm mà thành tựu được pháp thế gian, xuất thế gian và xuất thế gian thượng thượng của Như Lai. Bởi Thánh tuệ nhãn vào tự tướng cộng tướng dựng lập Như, nên chỗ dựng lập không đồng với luận ác kiến của ngoại đạo.

Đức Phật có tuệ nhãn của bậc thánh, trên tự tướng và cộng tướng mà dựng lập thể như. Chỗ dựng lập của Phật khác với ác kiến ngoại đạo. Ác kiến ngoại đạo hoặc cho thế này, hoặc cho thế kia. Chư Phật chỉ thẳng tâm thể như như là gốc.

Chân nhân của chánh pháp cũng có bảy thứ sai biệt. Song các thứ cảnh giới đều là đệ nhất nghĩa cảnh giới, không có cái khác của phàm thánh cạn sâu.

Tất cả cảnh giới dù phàm hay thánh đều không rời đệ nhất nghĩa, như có bao nhiêu đồ trang sức cũng không rời vàng.

Như Lai trong ba đời dùng Thánh tuệ nhãn vào tự tướng cộng tướng chỗ dựng lập đều là như. Như tức là bảy thứ thật tướng không có phàm thánh cạn sâu, thảy đồng một vị. Nếu không phải Thánh tuệ nhãn thì đâu thể chứng biết. Tâm cảnh giới, tức là Như Lai tàng chuyển thành tàng thức, cùng với tất cả tâm vương tâm sở của bảy căn thức trước đều là cảnh giới của tâm sở hành. Tuệ cảnh giới chỉ cho văn, tư, tu và các thiền định tam-muội.

Tâm cảnh giới là cảnh giới của bảy căn thức đều là Như Lai tàng. Tuệ cảnh giới là cảnh giới các thiền định tam-muội. Như vậy bước vào cảnh giới trí tuệ bằng cách văn, tư, tu và thiền định.

Trí là căn bản trí. Do căn bản trí phát sanh, nhiên hậu mới thông đạt được Không Như Lai tàng và Bất không Như Lai tàng. Tri kiến như thật là nói cảnh giới nhị kiến. Siêu, tức là siêu nhị kiến này. Bồ-tát đến Thập nhất địa (Đẳng giác) còn có hai cái ngu, qua được nhân vị này mới hết. Như Lai tự đáo cảnh giới, tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mới nói là duy tâm, quên nhân tột quả.

Đến chỗ tột cùng này mới thấy muôn pháp từ tâm mê mà ra, biết rõ nhân, tột cùng quả, không lầm không sai.

Ngoại đạo không biết cảnh giới tự tâm hiện, ban đầu do bất giác huân biến thành thức, vốn không có thật thể, vọng cho là thật rồi chấp làm tự tánh.

Ngoại đạo không biết cảnh giới ban đầu do mê tâm mà khởi, khi khởi ra muôn pháp thì họ chấp là thật có tự tánh. Không biết tất cả từ tâm chân mà phát vọng.

Nhị thừa chẳng đạt được pháp không, nên kẹt nơi quyền tiểu. Cả thảy trọn ngày ở trong đệ nhất nghĩa mà quên chân theo vọng.

Nhị thừa thấy được ngã không, chưa thấu suốt được pháp không, nên mắc kẹt trong Quyền thừa hoặc Tiểu thừa. Dù cho ngoại đạo hay Nhị thừa cũng đều ở trong đệ nhất nghĩa. Chỉ vì quên chân theo vọng mà bày ra nhiều cấp bậc.

Như Lai thương xót những kẻ ngu si này rộng dạy pháp yếu.

Phật thương xót những kẻ ngu, tức là Nhị thừa, ngoại đạo và phàm phu bèn chỉ dạy pháp yếu. Pháp yếu là tất cả các tướng hư dối gốc từ tâm mà ra, chỉ vì quên tâm chân chạy theo hư vọng nên có các pháp giả dối.

Tức là đến nơi phàm thánh duy thức sai biệt, chỉ ra tự tánh đệ nhất nghĩa tâm của Như Lai.

Tất cả sai biệt của phàm thánh đều từ thức biến. Tất cả sai biệt ấy từ gốc đệ nhất nghĩa tâm của Như Lai, không ở đâu khác.

Mở bày cho kẻ phàm ngu thì dùng pháp quyền là tột bảy trở về một, chỉ cho kẻ đại trí thì dùng pháp thật tức bảy tức một.

Dùng phương tiện (pháp quyền) chỉ dạy phàm ngu là tột bảy trở về một. Tột bảy là chỉ cho tâm cảnh giới, tuệ cảnh giới, kiến cảnh giới, trí cảnh giới, siêu nhị kiến cảnh giới, siêu tử địa cảnh giới, Như Lai tự đáo cảnh giới. Lần lượt hết bảy cảnh giới này để trở về tâm. Dạy người trí thì dùng pháp thật, không phương tiện thứ lớp, nói bảy cảnh giới đó không ngoài đệ nhất cảnh giới là tâm, nên nói tức bảy là một, tức một là bảy.

Do đây mà thành tựu pháp thế gian, xuất thế gian thượng thượng. Tất cả Như Lai tự thọ dụng và tha thọ dụng đều do đây dựng lập.

Báo thân Phật thường ở cõi thanh tịnh, đó là tự thọ dụng; ứng hóa thân Phật tùy duyên hiện ở các cảnh giới độ chúng sanh, đó là tha thọ dụng. Chúng ta bây giờ cũng có hai thọ dụng. Một là chỗ an ổn tu hành do nội tâm và ngoại cảnh thanh tịnh, đó là tự thọ dụng. Tha thọ dụng là tạo các duyên cho mọi người được an ổn tu hành, được thẳng tiến trên đường đạo, nên đôi lúc phải lăn lóc vào cảnh giới chúng sanh. Nếu tự mình được an ổn mà cứ im lìm không hóa độ mọi người thì đó là được tự thọ dụng mà không có tha thọ dụng.

Cho nên tuy có tự tướng cộng tướng trọn chẳng ngoài chân nghĩa như thật. Bởi thế nên cùng với ác kiến của ngoại đạo có khác.

Tuy có tướng chung, tướng riêng nhưng đều ở trong đệ nhất nghĩa tâm, khác với ngoại đạo tìm cầu các tướng ngoài tâm, nên gọi họ là ác kiến.

Đại Huệ! Thế nào đồng với ác kiến luận của ngoại đạo? Nghĩa là chẳng thông tự cảnh giới, vọng tưởng kiến chấp, chẳng hiểu biết chừng ngằn tự tâm hiện ra. Đại Huệ! Phàm phu ngu si đối với tánh, vô tánh, tự tánh, đệ nhất nghĩa mà khởi bàn luận nhị kiến.

Vì ngu si nên đối với các pháp tự tánh, đệ nhất nghĩa, vô tánh... cứ bàn luận phân biệt hai bên, thành ra sai lầm.

Ác kiến của ngoại đạo đều do vọng tưởng, chẳng biết tự tâm hiện. Cho nên, trọn ngày ở trong đệ nhất nghĩa luống tạo nhị kiến có, không; đây là chỗ không đồng với chánh pháp.

Chúng ta trọn ngày ở trong đệ nhất nghĩa mà lại chấp hai bên. Chấp hai bên là tốt xấu, hay dở, phải quấy... Như vậy chúng ta không khác ngoại đạo.

Tánh Như Lai tàng thuần nhất chẳng tạp, không có người, pháp nên nói vô tánh.

Tánh Như Lai tàng thuần nhất chẳng tạp. Nghĩa là chỉ có tánh giác không xen tạp vọng tưởng. Không chia đây là người, kia là pháp nên nói là vô tánh.

Tánh của vô tánh gọi là tâm đệ nhất nghĩa.

Chỗ không phân biệt đây kia, là đệ nhất nghĩa tâm.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chẳng biết đệ nhất nghĩa đế, nên gọi là vô minh.” Ở trong vô minh thấy pháp có chừng ngằn, không biết tâm hiện nên chấp có chấp không, lại tăng thêm vọng tưởng. Cho nên nói “tự cảnh giới”. Tự kiến chẳng trừ vọng chấp thành luận. Vì thế văn sau lại chỉ ra lỗi ấy.

Bởi vô minh nên không biết các pháp đúng như thật rồi khởi ra chấp có, chấp không. Chấp có chấp không thì càng tăng trưởng vọng tưởng. Vọng chấp tạo nên luận tà xa chánh đạo.

6. BÁC TÀ ĐOẠN CÓ, KHÔNG CỦA NGOẠI ĐẠO

Lại nữa, Đại Huệ! Vọng tưởng ba cõi khổ được diệt thì vô minh, ái, nghiệp duyên liền diệt. Lúc ấy cảnh huyễn do tự tâm hiện ra theo đó mà thấy. Nay sẽ nói.

Trước tiên đức Phật nói ba cõi này do vọng tưởng mà có. Vọng tưởng vô thường tạo thành ba cõi thì ba cõi cũng vô thường. Diệt được nhân vọng tưởng thì vô minh, ái, nghiệp duyên liền theo đó diệt, lúc ấy mới thấy là cảnh huyễn do tự tâm hiện ra.

Sắp chỉ ra lỗi vọng chấp có, không, bèn lo cho người mê sâu khó biết; nên bảo hoặc nghiệp khổ hết, mới tin tự tâm hiện ra đều như cảnh huyễn.

Hoặc, nghiệp, khổ là nhân quả sanh tử luân hồi, trong đó si hoặc là đầu mối. Dứt được si hoặc mới tin được tự tâm.

Chính là nói tập khí thấy sai kia khó trừ, nên cảnh giới như huyễn chưa dễ gì thấy được. Ba cõi là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Khổ là quả khổ vậy.

Trong ba cõi dù cho sanh lên cõi trời Sắc giới hay Vô sắc giới, vẫn là vô thường nên đều là khổ.

Khổ quả trong ba cõi là từ vọng tưởng mà sanh, nên nói “vọng tưởng ba cõi khổ”.

Ba cõi thành ra quả khổ là gốc từ vọng tưởng. Như do một niệm vọng tưởng tham sân tạo thành nghiệp tham sân. Nghiệp tham sân tạo rồi sẽ có quả bị tù tội hoặc bị đánh đập. Kết quả đó thấy như là thật, nhưng xét cho cùng thì cái nhân vọng tưởng đó không thật. Nhân không thật mà chúng ta chạy theo nó thì tạo thành quả dường như thật.

Vô minh là căn bản vô minh. Ái là tham dục tức là nhuận sanh vô minh.

Căn bản vô minh là vô minh đầu trong mười hai nhân duyên, nhuận sanh vô minh là chi ái trong mười hai nhân duyên. Nhuận là thấm nhuần, đượm ướt dòng luân hồi sanh tử không dừng. Trong mười hai nhân duyên chúng ta khó đoạn căn bản vô minh, mà chỉ đoạn dứt nhuận sanh vô minh tức là Ái. Chấm dứt ái là cội gốc của luân hồi, đó là việc quan trọng.

Hai thứ vô minh này hay kết nghiệp nhân trong ba cõi nên nói là hoặc.

Căn bản vô minh là cái đầu tiên rất khó thấy, nhuận sanh vô minh là cái hiện tại dễ biết. Khi chúng ta còn yêu mến cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, tâm còn ái trong tam giới thì còn tạo nghiệp trong ba cõi không ra khỏi được. Vì vậy đó gọi là hoặc.

Do hai thứ hoặc này tạo nghiệp trói buộc sanh tử, nên nói là nghiệp duyên.

Chúng ta thấy những người sắp chết thường buồn rầu vì tiếc nuối thân mạng, tiền của, con cái... nên cứ lẩn quẩn trong ba cõi. Các thiền sư thì cười trong khi ra đi, mấy mươi năm huyễn mộng, mình là khách dạo chơi trong tam giới như vậy đi có gì tiếc?

Ba thứ hoặc, nghiệp, khổ đều duy tâm hiện ra, mà ngoại đạo không thông cảnh giới như huyễn, chấp cho là thật có rồi vọng sanh phân biệt.

Hoặc hay còn gọi là bất giác, biến chuyển dần dần kết thành duyên để có mặt trong tam giới. Cội gốc của tam giới là bất giác. Ngoại đạo không hiểu chỗ này bèn vọng cho là có nguyên nhân này, nguyên nhân kia sanh ra tam giới. Nguyên nhân đầu tiên thật có, nên cảnh và người đều thật có. Đó là cái hiểu sai lầm.

Hoặc lại khởi hoặc, khổ càng thêm khổ, mắc sâu trong hư vọng không thể tạm bỏ.

Cảnh giới như huyễn mà chấp cho là thật rồi vọng sanh phân biệt, từ đó hoặc lại khởi hoặc, khổ càng thêm khổ. Phần đông chúng sanh lẩn quẩn trong vòng tròn hoặc-nghiệp-khổ cứ như vậy mà quay hoài. Tu là thoát khổ, không phải thoát cái khổ cuốc đất, làm những chuyện tay chân nhọc nhằn, mà thoát khổ mê lầm. Nếu không hiểu chỗ quan trọng này thì thấy người tu cũng như người đời, cũng lo ăn ngày ba bữa, có tụng thêm thời kinh hay ngồi thiền rồi nghỉ, không có gì hay. Sự thật thì người tu phải có cái nhìn, có trí tuệ để biết được cội gốc của đau khổ, tu để gỡ bỏ gốc khổ. Đó mới là cao, là siêu xuất.

Vì thế Như Lai trịnh trọng nói đó, rồi sau mới chỉ ra, ý rất là thâm thiết.

Đại Huệ! Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn muốn khiến vô chủng, hữu chủng nhân quả hiện, và sự do thời mà trụ, hoặc duyên ấm, giới, nhập sanh cho là trụ, hoặc nói sanh rồi diệt.

Đây là chỉ cho những lối chấp của người tu sai lầm.

Sa-môn dịch là Cần tức, chỉ cho người xuất gia học đạo gồm cả người theo chánh pháp và tà đạo.

Sa-môn là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Cần tức. Cần là siêng năng, Tức là dứt. Siêng năng đoạn dứt những cái xấu dở, những tâm niệm điên đảo hư dối của mình, đó gọi là Cần tức. Còn Sa-di dịch là Cần sách hoặc Cầu tịch. Chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của các danh từ Sa-di hoặc Sa-môn, đó cũng nói lên sự cao đẹp, bổn phận phải làm khi mang tên như thế.

Ở Ấn Độ, người tu theo Phật hay các đạo khác đều gọi là Sa-môn.

Bà-la-môn dịch là Tịnh hạnh, ở Ấn Độ người tại gia hành đạo, tức xứ này là Nho gia vậy.

Bà-la-môn là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Tịnh hạnh, tức là hạnh trong sạch. Những người Bà-la-môn Ấn Độ giống như các nhà Nho Trung Hoa hay Việt Nam thời xưa. Các nhà Nho rất trọng lễ nghĩa, liêm chính đàng hoàng, cho nên cũng thuộc về hạnh trong sạch.

Vô chủng, là không biết chân tướng của tàng thức, chấp bướng vô minh phát nghiệp cho là xưa không nay có.

Chữ vô chủng là không có hạt giống. Vì không biết hạt giống của các pháp, hay hạt giống của các thức từ chân thức mà ra nên chấp bướng vô minh phát nghiệp, cho rằng xưa không có bây giờ bỗng nhiên có.

Như chấp minh sơ cho là sanh nhân, thành đại v.v... hai mươi ba quả, có hiện ra như thế.

Sanh nhân tức là nhân sanh của tứ đại.

Hữu chủng, là chẳng biết thức lưu chú và tướng đều duy thức hiện, vốn không thật tánh, vọng chấp tứ đại, vi trần v.v... cho là sanh nhân, thành tất cả quả có hiện ra như thế.

Trên nói vô chủng, đây nói hữu chủng là có hạt giống. Tức là chấp đất, nước, gió, lửa, phần vi tế là nhân sanh ra vạn vật. Cho cái ban đầu nhỏ xíu là cái nhân sanh ra quả như vậy. Không biết các pháp đều từ thức lưu chú biến hiện.

Và chấp sự sanh ra này y nơi thời gian mà trụ, như Tán thời sư chấp thời là thường là nhất là nhân sanh vạn vật.

Ngoại đạo này cho thời gian là thường, thời gian là nhất, thời gian sanh ra muôn vật.

Hoặc nói duyên ấm, giới, nhập sanh cho là trụ, đây là chấp ngũ uẩn thật ngã thật pháp, đồng với hữu chủng. Hoặc nói sanh rồi lại diệt, đồng với vô chủng.

Đại Huệ! Kia hoặc chấp tương tục, hoặc sự, hoặc sanh, hoặc hữu, hoặc Niết-bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc đế, đều là luận phá hoại đoạn diệt. Vì cớ sao? Vì lời chấp này hiện tiền không thể được, và sẽ vô phần đối với chỗ thấy cứu cánh. Đại Huệ! Thí như cái bình bể không thể làm được việc của cái bình, cũng như hạt giống bị cháy không thể làm được việc nảy mầm.

Phật nói chung những lối chấp lầm của ngoại đạo. Hoặc họ chấp tương tục, hoặc chấp sự, chấp sanh, chấp hữu, chấp Niết-bàn, tất cả những lối chấp đó dù nói Niết-bàn cũng là bệnh, kết luận đó là luận phá hoại đoạn diệt. Những lối chấp này không có lẽ thật, không đưa người tu đến chỗ rốt ráo giải thoát, nên nói hiện tiền không thể được, và sẽ vô phần đối với chỗ thấy cứu cánh. Phật dùng thí dụ cái bình bể không thể chứa được nước, hạt giống bị cháy không thể nảy mầm.

Tương tục tức là lưu chú. Sự tức là tướng. Nhân duyên hòa hợp gọi là sanh, nhân duyên chia lìa gọi là diệt. Nhân quả hiện tại gọi là hữu. Sanh diệt đã diệt gọi là Niết-bàn. Siêu tình tuyệt trí gọi là đạo. Y lý thành hạnh gọi là nghiệp.

Sao gọi là y lý thành hạnh? Ý nghĩ của chúng ta chỉ có ở bên trong, không có hình thức tướng mạo thật nên gọi là lý. Nương theo lý đó khởi ra công hạnh, ý nghĩ lành khởi ra lời nói hành động lành thành nghiệp lành; ý nghĩ dữ khởi ra lời nói hành động dữ thành nghiệp dữ. Đó là y lý thành hạnh. Chúng ta cũng thường nghe nói chấp lý bỏ sự. Chấp tư tưởng mà bỏ hành động bên ngoài. Thí dụ có người nói rằng tôi biết quý thầy tu hành chân chánh, tôi cung kính trong tâm là đủ, không cần phải lễ lạy, lễ lạy làm mất giá trị con người. Như vậy là chấp lý bỏ sự. Sự là hành động hiển lộ bên ngoài. Nếu chỉ có lý không, khi gặp quý thầy mình nói tôi cung kính quý trọng lắm, mà không chịu cúi đầu, không thèm chào, làm sao người ta biết được sự cung kính của mình? Cho nên từ trong tư tưởng phải có hiển lộ ra hành động mới gọi là đầy đủ.

Việc làm đã xong gọi là quả. Đệ nhất nghĩa được thành gọi là đế. Từ tương tục đến hữu thuộc về pháp thế gian. Từ Niết-bàn đến đế thuộc về pháp xuất thế gian. Ngoại đạo không biết tự tâm hiện ra, huyễn vọng không thật, mà lấy huyễn vọng hiện tiền chấp là nhân tướng hoặc là quả tướng.

Thí dụ tôi có ý niệm muốn làm một cái nhà. Tôi mời thợ nề, thợ mộc rồi mua vật liệu. Vậy khi hỏi cái gì là nhân của nhà này, ta chỉ nói rằng thợ mộc, thợ nề, gỗ, cây, cát, đá, gạch... mà không nhớ ý niệm muốn làm cái nhà là nhân chánh. Đó là chỗ mình thấy sự vật ở lớp thứ hai, thứ ba bên ngoài mà không thấy suốt được cái gốc quan trọng ở trong. Ở đây muốn nói từ cái lý tâm thức biến hiện rồi mới khởi tạo ra bao nhiêu hình tướng bên ngoài. Ngoại đạo không biết gốc từ tâm huyễn vọng không thật, bèn lấy cái huyễn vọng hiện tiền chấp là nhân tướng hoặc quả tướng.

Không những pháp thế gian sanh diệt, mà pháp xuất thế gian vô sanh diệt, vọng chấp là có, vọng chấp là không, trọn trở về chỗ tiêu diệt. Nên nói “không thể được”. Không đạt được sanh tướng của vô minh, nên tự thể của chân như chẳng phải chỗ thấy của họ. Nên nói “vô phần đối với chỗ thấy cứu cánh".

Không thấu đạt các tướng phát khởi từ vô minh. Không biết cái gốc vô minh thì làm sao dẹp được vô minh. Không dẹp được vô minh thì không sao thấy được chân như.

Chân như là chỗ cứu cánh, nên nói vô phần đối với chỗ thấy cứu cánh.

Bởi mê bản giác nên sanh diệt rõ ràng, chẳng liễu được việc trước mắt nên có, không đều vọng. Thế nên, Thế Tôn chỉ họ là phá hoại đoạn diệt. Dụ như bình bể chẳng làm được việc cái bình, hạt giống cháy không làm được việc nảy mầm. Nghĩa là không phải nhân chân, ắt không có quả chân.

Như thế, Đại Huệ! Nếu tánh ấm, giới, nhập đã diệt, hiện diệt và sẽ diệt thì tự tâm vọng tưởng thấy vô nhân, kia không thứ lớp sanh.

Nếu nói tánh của ngũ ấm, thập bát giới, thập nhị nhập đã diệt và hiện diệt thì người đó tự tâm vọng tưởng thấy là không có nhân. Vì những pháp đó diệt mất thì không biết từ đâu sanh.

Đây quả là luận đoạn diệt, vì chẳng biết lưu chú sanh nhân.

Tất cả cái đó do thức lưu chú sanh mà không biết, nên khi nó diệt mất thì cho là mất hẳn.

Thứ lớp là lưu chú tương tục.

Ấm, giới, nhập đều từ thức lưu chú làm nhân tiếp nối liên miên sanh khởi.

Ấm, giới, nhập tuy diệt mà vẫn còn tương tục. Cái sanh nhân tương tục này là do mê chân nên khởi, căn trần theo đó mà hiện.

Vì mê chân tức là quên chân thức hay Như Lai tàng, theo dòng thức lưu chú nên căn trần hiện khởi. Từ đó chạy theo căn trần mà không biết trở lại gốc.

Căn trần tuy diệt mà tương tục chẳng diệt. Tương tục lại diệt mà thể tương tục chẳng diệt.

Dù tu đến thức tương tục diệt, nhưng thể của thức tương tục tức là Như Lai tàng hay là chân thức không bao giờ diệt.

Nghĩa là chỉ nghiệp tướng diệt mà tự chân tướng chẳng diệt. Nay ngoại đạo bảo tánh ấm, giới, nhập đã diệt, hiện diệt và sẽ diệt, chính là tự vọng tưởng chấp cho là ấm, giới, nhập chẳng phải từ mê mà có, luống thấy nó tự sanh tự diệt, bèn thành vô nhân.

Ngoại đạo không thấy đến cái nhân đầu tiên của ấm, giới, nhập. Cũng như người ta không thấy được cái nhân từ tâm mình muốn tạo nên cái nhà, mà chỉ thấy cái nhân cây cối vật liệu. Không thấy được cái nhân gốc nên thành vô nhân.

Cho nên biết, chẳng rõ lưu chú sanh nhân thì chẳng những thấy sanh nghi là thật sanh, thấy diệt cũng nghi là thật diệt.

Vì không thấy rõ thức lưu chú là nhân sanh ra các pháp, chỉ thấy các pháp hiện có. Thấy sanh là thật sanh, thấy diệt là thật diệt.

Nghi thật sanh thì không thông cái gốc mê chân như mà khởi. Nghi thật diệt thì chẳng rõ cái thể tự tánh vô sanh. Hai cái chấp có, không này đều là đoạn diệt.

Chấp có là căn cứ trên tướng hư giả cho là thật có. Chấp không chấp diệt cũng là căn cứ trên tướng hư giả diệt cho là diệt thật.

Đại Huệ! Nếu lại nói vô chủng hữu chủng, thức do ba duyên hợp mà sanh thì rùa ưng sanh lông, cát nên ép ra dầu. Tông họ ắt phải hoại, vì trái với nghĩa quyết định. Về thuyết hữu chủng vô chủng có lỗi như thế. Nếu có tạo sự nghiệp gì thảy đều không, vô nghĩa.

Lại có hạng ngoại đạo chấp tất cả pháp thế gian này là hữu chủng, tức là có hạt giống ban đầu; hoặc chấp vô chủng là không có hạt giống ban đầu. Các pháp do ba duyên sanh nghĩa là gì? Ba duyên là căn, trần, thức. Nhưng nếu chấp ba duyên này thật có thì cũng là bệnh, vì chưa thấu suốt cội nguồn bên trong. Vì vậy nói những lối chấp ấy như rùa có lông, cát có dầu. Đó là chuyện không có lẽ thật, tông họ ắt phải hoại. Tông là lập trường của một lý luận. Lập trường của lý luận đó bị phá hoại vì trái với nghĩa quyết định, tức là nghĩa thật.

Về thuyết hữu chủng vô chủng có lỗi như thế. Nếu có tạo sự nghiệp gì thảy đều không, vô nghĩa. Đa số chúng ta thường chấp vào thuyết hữu chủng. Thí dụ hỏi cái gì làm nhân cho cây đào, mình liền nói hạt đào là nhân, trái đào là quả. Chúng ta chỉ biết ngang chừng đó, không thấy sâu chỗ mê lầm bất giác. Nếu biết rõ các tướng đó đều từ gốc mê, chừng đó chúng ta mới tin các tướng nhân quả thế gian đều là huyễn hóa. Kinh Lăng-nghiêm có chỗ Phật nói: “Phi nhân duyên, phi tự nhiên.” Ngài A-nan thắc mắc, ngày xưa Phật nói nhân duyên, như vậy có phải Phật tự mâu thuẫn? Thật ra nói nhân duyên là trên giới hạn các tướng đã có. Nếu xét từ gốc mê, từ bất giác thì không thể nói nhân duyên. Chỉ là bất giác tâm hiện không phải có nhân thật.

Vọng chấp ba duyên hợp mà sanh vẫn mê yếu chỉ nội thức biến, in tuồng như có.

Phật pháp đi dần từ cạn tới sâu. Trong các kinh A-hàm, đức Phật luôn đặt vấn đề nhân duyên nhân quả là gốc. Dựa trên phàm tình, chúng sanh chỉ hiểu chuyện thường ở thế gian, nhưng lại hiểu sai, cho rằng sự vật là thật, là thường hoặc là do một đấng tạo hóa sắp đặt. Để đối trị cái thấy sai, Phật dạy các pháp do duyên hợp, không thật có. Cao hơn một bậc, các triết gia ngoại đạo chấp theo tri kiến của mình, cho sự vật do vi trần, hoặc thời gian hoặc sĩ phu... làm nguyên nhân. Đó đều do không thấy tột được gốc nên Phật đều phá bỏ, để dẫn dụ đến chỗ chân thật là các pháp không có nhân duyên, chỉ từ mê tâm chợt khởi. Nếu chấp nhân duyên là thật, nhân duyên có cho là thật có, nhân duyên không cho là thật không, thì cũng chưa rốt ráo.

Tất cả căn trần đều do nội thức biến dường như hiện tiền, duyên hợp chẳng phải không, do mê khởi chẳng phải có, vốn là lý vô sanh, lầm chấp là nhân tướng. Ấy là rùa không có nhân lông mà sanh lông, cát không có nhân dầu mà sanh dầu. Trái với nghĩa quyết định, tông kia có lỗi như thế. Đâu có không nhân mà hay có quả. Thế là tạo tác sự nghiệp thảy đều không, vô nghĩa.

Không biết được nhân gốc ở trong, cứ nắm cái ngọn bên ngoài rồi cho đó là thật, tất cả sự nghiệp tu tập sẽ trở thành không, trở thành vô nghĩa.

Đại Huệ! Các ngoại đạo kia nói có ba duyên hợp lại mà sanh, tạo ra phương tiện tự tướng nhân quả, quá khứ, hiện tại, vị lai tướng hữu chủng vô chủng từ xưa đến nay thành việc truyền thừa nhau, thành tập khí giác tưởng chuyển tự thấy sai, nên nói như thế. Thế nên, Đại Huệ! Phàm phu ngu si bị ác kiến nuốt sống, tà khúc làm mê say, không trí dối xưng nhất thiết trí.

Kết thúc, Phật quở những sai lầm của ngoại đạo và phàm phu.

Ba duyên hợp mà sanh, Thế Tôn cũng thường bảo nhân quả thế gian có tự tướng phương tiện như thế.

Đôi khi Phật cũng phương tiện nói ba duyên hợp mà sanh, nhưng chủ yếu răn chúng sanh đừng chấp là pháp thật.

Đây do tự mê chân mà nói, không nên chấp nó làm nhân tướng quyết định có hay không.

Đoạn kinh này dạy rằng bởi do mê chân mà các pháp hiện hữu, không nên chấp quyết định là có nhân hay không nhân. Đã từ mê mà có thì cái có đó hư dối, không đúng lẽ thật. Tất cả lý luận đều là trong mê. Từ các kinh A-hàm cho đến nhà thiền đều bác bỏ kiến chấp có không. Mình vừa nói có, nói không là bị đưa hai ngón tay, nghĩa là kẹt hai bên. Phật nhắc đi nhắc lại chỗ này rất kỹ.

Ngoại đạo vọng chấp có, không, tột tám muôn kiếp là không biết, bèn chấp ba duyên sanh tạm hiện. Lầm cái nhân mê mà khởi trong ba đời, thành cái tập giác tưởng thấy sai. Từ trước đến nay thành việc truyền thừa nhau, người đời không biết lầm cho là người trí nói.

Thí dụ, hồi nhỏ tôi thấy mấy ông đồ trong xóm, khi ai cất nhà đến hỏi, ông giở lịch xem rồi định ngày nào, giờ nào là tốt để cất nhà. Đám cưới đám hỏi đến nhờ ông cũng giở lịch rồi định ngày giờ. Ai sanh con giờ nào tháng nào cũng đến cho ông xem tuổi, xem tướng đứa bé tốt hay xấu. Mình còn nhỏ nên phục lăn, nghĩ rằng ông già này hay quá, biết ngày tốt xấu, giờ lành dữ... Như vậy là chúng ta dối cho mấy ông đồ là người trí rồi. Nhưng xét kỹ đó là tội lớn, mình mê làm cho người khác mê theo, không có trí chút nào hết. Chúng ta thấy rằng đó là cái sai lầm truyền thừa từ đời này sang đời khác mà cho là trí. Như ở Ấn Độ cho những người Bà-la-môn học bốn bộ Vệ-đà, cúng kính nghi lễ rành rẽ đó là trí. Nhưng Phật cho đó là mê lầm, không phải trí.

Vì thế, đức Thế Tôn lại bài xích đó, để chỉ bày cho thiên hạ muôn đời vậy. Phương tiện, là phương tiện duyên sanh. Phương tiện tạo ra, trông vào vô minh cho là quả tướng, trông vào nghiệp hệ cho là nhân tướng. Nhân quả thế gian do mê mà sanh, chấp mê mà khởi kiến, bám vào đó làm định luận, làm nghi ngờ kẻ mới học, gây tai hại không phải nhỏ.

Đức Phật chỉ ra chỗ mê lầm cho chúng sanh muôn đời sau. Nếu cứ tin theo các ngoại đạo thì cũng giống như người mù dắt một lũ mù, cùng bị rơi vào hố sâu.

7. CHỈ BÀY LÌA VỌNG ĐƯỢC CHỨNG

Đại Huệ! Nếu các Sa-môn và Bà-la-môn thấy lìa chấp tự tánh, như mây nổi, vòng lửa, thành càn-thát-bà, không sanh, huyễn, sóng nắng, trăng đáy nước và mộng, trong ngoài đều do tâm hiện.

Người tu dù Sa-môn hay Bà-la-môn thấy rõ các pháp không chấp có tự tánh, tức là không có thực thể cố định. Nó giả dối như mây nổi, như vòng lửa, như thành càn-thát-bà, là không sanh, là huyễn, là sóng nắng, là trăng đáy nước, là như mộng, đều do tâm hiện ra. Biết như vậy là cái thấy đúng.

Vọng tưởng hư ngụy từ vô thủy chẳng lìa tự tâm.

Tất cả vọng tưởng hư ngụy từ hồi nào đến giờ, đều không lìa nơi tâm của mình.

Nhân duyên vọng tưởng diệt hết thì lìa vọng tưởng năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán, thọ dụng, kiến lập thân đều là tàng thức.

Nếu nhân duyên vọng tưởng diệt hết, lìa được vọng tưởng thì năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán đều trở về Như Lai tàng.

Nơi cảnh giới thức thì năng nhiếp thọ và sở nhiếp thọ đều chẳng tương ưng.

Hai cái đều không hợp nhau.

Cảnh giới không thật có, lìa sanh trụ diệt, tự tâm sanh khởi theo vào chỗ phân biệt.

Cảnh giới không thật có, xa lìa sanh trụ diệt. Sanh trụ diệt là pháp hữu vi, pháp hữu vi đều không thật, như huyễn mộng sóng nắng, chỉ vì tự tâm sanh khởi nên theo đó phân biệt là có là không.

Đại Huệ! Bồ-tát kia chẳng bao lâu sẽ được xem thấy sanh tử và Niết-bàn là bình đẳng, được đại bi xảo phương tiện và vô khai phát phương tiện.

Người biết tự tâm mê hiện thì không bao lâu sẽ thấy sanh tử và Niết-bàn bình đẳng. Hiện tại chúng ta thấy sanh tử khổ đau, Niết-bàn an lạc, là thấy hai bên. Nếu thấy tất cả năng sở đối đãi đều không thật, Niết-bàn là đối với sanh tử không thật nên bình đẳng. Thí dụ như người làm hoa giấy, có cái đẹp cái xấu. Chúng ta nhìn thấy đẹp xấu cũng chỉ là hoa giấy, không phải hoa thật. Nếu biết đẹp hay xấu là do khéo tay, cái dáng vẻ bên ngoài, bản chất của nó là giấy, thì ngay đó bình đẳng. Cũng vậy, chúng ta biết các pháp đối đãi đều là hư huyễn giả danh, thì tốt xấu, khổ vui... cũng đều bình đẳng. Kinh đây nói Niết-bàn sanh tử bình đẳng là như vậy.

Người nào thấy được như vậy sẽ được lòng đại bi đầy đủ thiện xảo phương tiện và vô khai phát phương tiện. Mình biết huyễn hóa mà chúng sanh mê, giành cái đẹp, chê cái xấu đánh đập làm khổ nhau. Lúc đó mình liền khởi lòng thương, tìm cách này cách kia can gián để họ khỏi giành giật tranh đấu với những cái giả. Đó là đại bi thiện xảo phương tiện vô khai phát, tự nó như vậy không đợi dụng công. Đôi khi người ta hiểu lầm tinh thần Phật giáo Đại thừa, tưởng rằng khi thấy các pháp như huyễn là tâm mình cạn khô, cuộc đời giả dối mà còn lo cứu độ chúng sanh làm chi. Nhưng chính khi thấy giả dối, lại càng thương chúng sanh. Thí dụ có mấy đứa trẻ chơi đùa, lấy lá lấy đất làm bánh trái mua bán với nhau. Chúng tranh giành mấy cái bánh bằng lá bằng đất gây gổ đánh nhau khóc lóc ầm ĩ. Người lớn thấy cảnh đó thì đứng cười hay tìm cách khuyên can chúng? Cái này không thật, ăn đâu có được mà tụi con giành! Để chú, bác mua kẹo cho ăn ngon hơn. Đó là thiện xảo phương tiện.

Cũng như vậy, Phật, Bồ-tát thấy chúng sanh tranh giành những cái giả dối đáng tức cười đó đến nỗi xâu xé, chém giết nhau, các ngài tìm phương tiện dụ dỗ chúng sanh, tu nghiệp lành để lên cõi trời hưởng phước, tránh điều ác để khỏi đọa địa ngục. Phương tiện đó vẫn còn trong giả dối, chưa tới lẽ thật. Lòng từ bi của người ngộ đạo khác hơn lòng từ bi của người thế gian. Người thế gian thấy ai túng thiếu bệnh tật thì thương, sốt sắng lo. Từ bi đó cũng rất tốt. Nhưng từ bi của Bồ-tát là thương sự mê lầm của chúng sanh, chỉ dạy cho hết mê lầm. Muốn chúng sanh giác ngộ thì phải tạo phương tiện ứng hợp với hoàn cảnh của chúng sanh, khi chúng hết mê thì tự nhiên hết khổ. Còn cố gắng tạo lập cái này cái kia rồi khổ cũng hoàn khổ. Như các nước nghèo thì nói nghèo là khổ. Nhưng ở các nước giàu cũng có cái khổ của họ. Khổ vì thương ghét không toại ý, vì tranh giành địa vị... Tất cả đều còn ở trong mê, chạy theo bóng hình giả dối nên cố ý tạo lập đến đâu cũng khổ.

Gốc từ tâm ý mà đổi thay. Như chúng ta tu, định tâm mạnh một phần thì có thể làm chủ được thân một phần, nếu định tâm hoàn toàn mạnh thì làm chủ thân tâm và hoàn cảnh hoàn toàn. Cho nên có các vị thiền sư muốn sống thì sống, muốn chết thì chết. Đó là từ tâm định. Định trong phạm vi thân này thì làm chủ thân này, định hoàn toàn trùm khắp thì làm chủ cả vũ trụ thế giới. Trong kinh Duy-ma, ông Duy-ma-cật đưa tay nắm thế giới Diệu Hỷ đem đặt vào thế giới này. Đó là muốn nói khi tâm chúng ta không còn giới hạn, trùm khắp sáng suốt thì làm chủ cả mọi thế giới, vượt cả thế giới. Khi thị hiện cõi Diệu Hỷ như vậy khiến cho đại chúng trong hội của đức Phật Thích-ca đều phát tâm thanh tịnh, đều nguyện tu hạnh thanh tịnh. Đây là đại bi xảo phương tiện của Bồ-tát, dùng thần thông khéo léo chuyển hóa tâm chúng sanh.

Đại Huệ! Kia đối với tất cả chúng sanh giới thảy đều xem như huyễn chẳng cần nhân duyên, xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm không còn thấy gì khác, thứ lớp tùy vào chỗ vô tướng, thứ lớp tùy vào từ địa này đến địa kia, cảnh giới tam-muội.

Tất cả cảnh giới đều xem như huyễn, không còn nhân duyên, vì nếu có nhân duyên thật thì cảnh cũng thật. Cảnh cực lạc hay địa ngục cũng tùy Bồ-tát tạo ra để răn nhắc chúng sanh, chúng sanh ác nghiệp thấy cảnh ác thì sợ nên ráng tu nghiệp thiện. Biết tất cả cảnh như huyễn, do tâm tạo thì phải luôn luôn giữ tâm thanh tịnh, đừng cho là cảnh không thật rồi tha hồ tạo ác. Thấu suốt nhân quả, thấu suốt tâm tưởng để cẩn thận giác tỉnh thì không lãnh quả khổ.

Bồ-tát khi thấy ngoài tâm không có pháp khác thì tùy theo thứ lớp mà vào chỗ vô tướng. Rồi cũng tùy theo thứ lớp chứng từ Sơ địa, Nhị địa, Tam địa... đến Thập địa.

Chẳng đạt được do mê khởi nên vọng thấy có pháp sanh. Đạt được vọng vốn là hư dối thì xem đồng với huyễn hóa. Nếu cái sai biệt bất giác liền không thì trí bi thuận tánh vô ngại.

Đối với cảnh sai biệt không mê, biết nó là không thật thì trí và bi thuận theo tánh, không có ngăn ngại.

Đây là lập bày chánh kiến tu hành, sở dĩ khác với ngoại đạo tà chấp. Nghĩa là Sa-môn, Bà-la-môn nếu hay đổi mê thành ngộ thấy tất cả pháp đều không tự tánh, như mây nổi v.v... không có sanh diệt, đã có tất cả tâm tướng trong ngoài chỉ bởi bất giác hư vọng từ vô thủy, toàn thể đều là tâm, không có phân biệt.

Nếu chúng ta biết tất cả các pháp từ tâm mê hiện, không có một pháp thật thì còn gì phân biệt, làm gì có khởi hơn thua.

Khởi quán như thế rồi thì tất cả tâm cảnh phân biệt liền dứt, tất cả ngôn thuyết phân biệt cũng dứt.

Hiện tại chúng ta ngôn thuyết đa đoan vì chúng ta thấy cảnh thật đa đoan. Bởi cảnh thật đa đoan cho nên mỗi người một khác. Thí dụ một thứ hoa lan ở trong rừng, chưa có tên. Nếu có hai người tìm được hoa đó đem về, họ sẽ đặt tên cho nó. Khi có người đến mua thì ông A nói tên A, ông B nói tên B. Xem lại thấy có một thứ hoa mà sao hai tên? Rồi họ tranh cãi theo chỗ thấy, theo vọng tưởng mỗi bên. Cãi nhau rồi tới đâu? Cái hoa lan đó có làm chứng tên này là đúng, tên kia là sai không? Đó gọi là ngôn thuyết đa đoan. Để thấy rằng khi chúng ta mê cứ tranh cãi, cứ chạy theo phân biệt, phân biệt rồi sanh ngôn thuyết. Cảnh phân biệt dừng thì ngôn thuyết mới dừng.

Quán căn thân khí giới hiện tiền đều là tàng thức biến hiện. Liền đó cùng với năng thủ sở thủ cả hai đều không tương ưng, không còn tất cả cảnh giới sanh diệt. Về sau mới từ tự tâm hiện lượng mà khởi các phân biệt.

Khi dứt hết phân biệt đối đãi sai lầm, mới đến phân biệt của tự tâm hiện lượng, phân biệt đó là phân biệt của trí.

Do đó Bồ-tát này chẳng bao lâu được sanh tử Niết-bàn cả hai đều bình đẳng, có lập ra phương tiện đều là vô công dụng. Quán chúng sanh giới duyên khởi là vô sanh, xa lìa tâm cảnh trong ngoài, không thấy có pháp gì ngoài tâm. Vào được Sơ địa vô phân biệt trí, do đây từ một địa đến một địa, các thứ thiền tam-muội thứ lớp được chứng nhập.

Vì thấy tất cả không ngoài tâm nên không khởi phân biệt. Tuy không khởi phân biệt nhưng trí sáng hiện tiền, đó là lúc bắt đầu vào địa vị Bồ-tát.

Hiểu tam giới như huyễn, phân biệt quán sát sẽ được như huyễn tam-muội. Qua tự tâm hiện không chỗ có, được trụ Bát-nhã ba-la-mật. Xả bỏ sanh kia tạo ra phương tiện vào Kim cang dụ tam-ma-đề, tùy vào thân Như Lai, tùy vào như như có biến hóa, thần thông tự tại, từ bi phương tiện đầy đủ trang nghiêm. Bình đẳng vào tất cả cõi Phật, vào chỗ ngoại đạo, lìa tâm, ý và ý thức. Bồ-tát này thứ lớp chuyển thân liền được thân Như Lai.

Khi dùng trí thấy tất cả pháp như huyễn, không khởi tâm phân biệt chấp trước, ngay đó tâm được an định. Đó gọi là như huyễn tam-muội, nghĩa là thấy các cảnh như huyễn thì chánh định hiện tiền.

Sở dĩ tâm chúng ta loạn vì còn thấy pháp thật, cứ chạy theo đó mà so sánh phân biệt. Nếu được như huyễn tam-muội rồi thì qua tự tâm hiện không chỗ có, tức là thấy các pháp đều từ tâm hiện không có thật. Lúc đó được an trụ Bát-nhã ba-la-mật hay gọi là trí tuệ cứu cánh. Xả bỏ sanh kia tiến vào Kim cang du tam-ma-đề, là chánh định vững chắc như Kim cang, rồi tiến thẳng đến địa vị Như Lai. Đoạn trước nói Bồ-tát thứ lớp từ địa này tới địa kia, bây giờ tiến đến Đẳng giác, từ Đẳng giác tiến lên Diệu giác, Phật. Cho nên nói tùy vào thân Như Lai, tùy vào như như có biến hóa, thần thông tự tại từ bi phương tiện đầy đủ... Nghĩa là đến đó được đầy đủ tất cả công dụng trang nghiêm.

Đây là tướng từ Bát địa đến Thập địa. Bát địa đoạn câu sanh ngã chấp hết, chứng vô công dụng đạo, việc làm đều dứt.

Loại chấp ngã mà khi vừa có mặt mình ở thế gian thì nó cũng có sẵn gọi là câu sanh ngã chấp, cũng như câu sanh vô minh. Kế đó loại chấp ngã do khi lớn khôn học hiểu mới sanh chấp trước gọi là phân biệt ngã chấp. Phiền não do phân biệt ngã chấp gây ra thì đến địa vị Kiến đạo diệt. Phiền não do câu sanh ngã chấp gây ra thì đến địa vị Tu đạo diệt. Phá được câu sanh ngã chấp, chừng đó mới chứng vô công dụng đạo, khế hợp chân lý một cách tự nhiên không cần dụng công.

Mười phương chư Phật đồng thanh khuyến phát, mới dùng như huyễn quán mà quán tam giới như huyễn, được như huyễn tam-muội.

Khi Bồ-tát đến chỗ thanh tịnh rồi, lại kẹt ở chỗ thanh tịnh, nên chư Phật đồng thanh khuyến khích, khuyên dùng pháp quán tam giới như huyễn để khởi tâm đại bi.

Qua được tự tâm hiện không chỗ có. Tự tâm hiện không chỗ có tức là vô công dụng đạo, chính là hành tướng của Bát địa, đến đây mới được vượt qua. Đến Cửu địa mới hay thuyết pháp lợi sanh. Đến Thập địa mới hay phân thân mười phương kính thờ chư Phật. Nói là được vô ngại Bát-nhã ba-la-mật. “Sanh kia” là chỉ cho sanh tướng vô minh. Từ Thập địa về sau dùng trí lực phương tiện của Kim cang dụ định mà đoạn sanh tướng vô minh, chứng pháp thân Như Lai chân như thường trụ, tự nhiên có bất tư nghì nghiệp dụng, đầy đủ phương tiện, đầy đủ trang nghiêm, vào khắp tất cả cõi Phật và vào chỗ ngoại đạo.

Đến Thập địa mới bắt đầu dứt sanh tướng vô minh, tức là vô minh ban đầu, phải dùng trí lực Kim Cang dụ định tức là dùng trí sắc bén của Chánh định Kim Cang để chặt đứt, để soi thấu sanh tướng vô minh. Đoạn hết cái đó thì được pháp thân Như Lai, được bất tư nghì nghiệp dụng, đầy đủ phương tiện, đầy đủ trang nghiêm, vào cõi Phật cõi ma đều được tự tại.

Nên nói “trên cùng mười phương chư Phật đồng một từ lực, dưới cùng lục đạo chúng sanh đồng một bị ngưỡng”.

Câu này là ở trong kinh Lăng-nghiêm nói về Bồ-tát Quán Thế Âm: Khi đến chỗ cuối cùng thì được trên cùng mười phương chư Phật đồng một từ lực, dưới cùng lục đạo chúng sanh đồng một bị ngưỡng.

Đến đây mới gọi lìa tâm, ý, thức được quả phương tiện nhị chuyển y. Bồ-tát này chóng ngộ được tự lý, trừ sạch nghiệp lưu cả hai đều thù thắng. Cho nên nói “thứ lớp được”.

Đại Huệ! Thế nên muốn được thân tùy nhập của Như Lai phải xa lìa ấm, giới, nhập, tâm nhân duyên, tạo ra phương tiện, sanh trụ diệt vọng tưởng hư dối.

Đoạn này ý Phật khuyến khích người tu học muốn nhập thân Như Lai phải buông bỏ chấp ấm giới nhập, không thấy nhân duyên, xa lìa mọi vọng tưởng sanh trụ diệt hư dối.

Chỉ có tâm thẳng tiến, quán sát lỗi hư ngụy từ vô thủy, nhân tập khí vọng tưởng.

Mới biết tất cả lỗi hư ngụy từ xưa đến giờ gốc từ vọng tưởng, từ thói quen vọng tưởng mà ra. Chúng ta thấy chỗ chủ yếu tu tập là dừng hết vọng tưởng. Tập khí vọng tưởng tạo ra nhiều thứ nghiệp, từ những thứ nghiệp khác nhau nên có nhiều loài chúng sanh khổ đau. Muốn chấm dứt sanh tử thì phải dứt vọng tưởng. Chúng ta chỉ cần biết vọng tưởng không thật thì nó tự hết.

Suy nghĩ ba cõi không thật có, được Phật địa vô sanh, đến tự giác thánh thú, tự tâm tự tại, đến vô khai phát hạnh, như hạt châu ma-ni tùy theo các sắc.

Vô khai phát hạnh là hạnh không do khai phát mà có, dụ như hạt châu ma-ni. Như có một viên lưu ly trong sáng tròn, bốn bên có bốn miếng giấy màu xanh, đỏ, vàng, tím. Khi đó nhìn trong hạt châu hay hạt lưu ly chúng ta thấy phản chiếu đủ các màu, tùy theo bên ngoài màu gì bên trong hiện màu đó. Hạt châu không dụng tâm dụng ý đem màu vào. Cũng vậy, chúng ta tu đến chỗ vô khai phát hạnh, tự nhiên đầy đủ các công hạnh độ sanh, tùy duyên cơ cảm mà có, không đợi khai phát.

Tùy nhập tâm vi tế của chúng sanh dùng hóa thân tùy tâm lượng mà độ.

Biết rõ tâm vi tế chúng sanh thế nào tùy theo đó hóa thân, theo tâm lượng của chúng sanh mà độ thoát.

Các địa thứ lớp tiếp nối dựng lập. Thế nên, Đại Huệ! Tự tất-đàn là thiện phải nên tu học.

Khi dựng lập các thứ lớp từ Sơ địa, Nhị địa đến Thập địa... đó là phương tiện vì độ người.

Đây là kết luận chỉ lại phương tiện tu hành. Câu “tâm nhân duyên”, tâm là thức tâm, nhân duyên là các thức hai loại sanh. Nghĩa là ấm giới nhập các tâm nhân duyên, khởi ra phương tiện, tất cả sanh diệt phân biệt hư dối, nên phải xa lìa. Đã xa lìa rồi phải trụ nơi duy tâm, lại không có lối tẽ.

Tức là thấy rõ các pháp không ngoài tâm có. Chỉ thẳng một bề thấy như vậy gọi là trụ duy tâm, không thấy khác hơn, không tu khác hơn. Đừng thấy vậy rồi nói mình phải luyện thần thông.

Thẳng tiến là nói không có lối tẽ. Tức là dùng tâm này quán sát lỗi vô minh phát nghiệp, cùng phân biệt nhân, pháp, tất cả tập khí, khởi ra nhân tướng.

Thấy rõ từ vô minh phát ra nghiệp, khi phát ra nghiệp rồi phân biệt nào là người là cảnh. Tất cả cái đó thành thói quen khởi ra tướng người tướng pháp.

Suy xét tam giới như huyễn, đạt đến Phật địa vô sanh, đến tự giác thánh trí, được tâm tự tại, vô công dụng hạnh. Như hạt châu ma-ni tùy các sắc, tùy nhập tâm chúng sanh, dùng hóa thân tùy chỗ thọ nhận của tâm lượng chúng sanh mà vì họ hóa độ, y các địa phương tiện dựng lập. Tự tất-đàn này phải nên tu học. Tất-đàn là pháp thí.

Nghĩa là pháp thí này các ông phải nên tu học.

Tóm đó, phương tiện tu hành trước phải phát minh hai thứ sanh diệt đều do bất giác từ vô thủy, bèn thành hư dối, trụ nơi duy tâm, liền trừ được tập khí đã khởi và hai cái chướng nhân pháp, mới biết ba cõi vốn là không, liền đó được vô sanh chẳng do công dụng.

Đây nói từ quả vị Bồ-tát tiến lên quả Phật phần lớn là tu quán các pháp như huyễn. Bởi mê không thấy được chân thức, hay là không thấy được Như Lai tàng cho nên bất giác vọng khởi. Từ bất giác vọng khởi có ra năng kiến sở kiến, có tàng thức đối đãi lập ra các pháp. Biết rõ các pháp gốc từ mê mà lập nên không thật. Biết gốc từ mê đó là đã tiến lần lên quả vị Bồ-tát, không bị ngoại cảnh chi phối nữa. Chỉ hướng để mình đi từ Bồ-tát đến quả vị Phật. Nếu khéo ứng dụng thì sẽ được kết quả như lời Phật dạy.

Mục Lục