Thiền Tông Việt Nam
Khóa Hư Lục Giảng Giải (1996)
Niêm Tụng Kệ - Giảng 16-20

16.- Cử: Sau khi Lâm Tế khai hóa chỉ dùng gậy hét dạy đồ chúng. Vừa thấy Tăng vào cửa liền hét.

Niêm:        

Mùng năm tháng năm giờ ngọ viết,
Miệng đỏ lưỡi độc tận tiêu trừ.

Tụng:         

Vào nhà liền hét muốn làm chi?
Dẫn được cháu con tỉnh giấc mê.
Chẳng phải sấm xuân vang một tiếng,
Làm sao vỏ hạt được nảy mầm.

Đây là cách dạy đồ chúng của Tổ Lâm Tế. Vừa thấy Tăng vào cửa, chưa cần hỏi han gì, Ngài liền hét một tiếng.

Niêm:

Mùng năm tháng năm giờ ngọ viết,
Miệng đỏ lưỡi độc tận tiêu trừ.

Theo tục lệ ông bà ngày xưa, vào ngày mùng năm tháng năm đúng giờ ngọ, viết lá bùa bát quái treo trước cửa nhà, thì tất cả tai nạn đều qua hết. Như vậy để nói một tiếng hét của ngài Lâm Tế giống như lá bùa viết vào trưa ngày mùng năm tháng năm, tiêu trừ được tất cả tai nạn.

Tụng:

Vào nhà liền hét muốn làm chi?
Dẫn được cháu con tỉnh giấc mê.

Tăng vừa bước vào nhà tham vấn liền bị hét. Tiếng hét đó là muốn dẫn con cháu tỉnh được giấc mê. Tại sao? Vì lời nói dù hay khéo đến đâu cũng gợi cho người suy gẫm, còn suy gẫm là chìm trong mê. Một tiếng hét làm giựt mình không còn gì suy nghĩ, chính là để đánh thức giấc mê cho con cháu.

Chẳng phải sấm xuân vang một tiếng,
Làm sao vỏ hạt được nảy mầm.

Đây là khen ngợi tiếng hét của ngài Lâm Tế vang lên như tiếng sấm cuối xuân, nhờ đó những hạt giống dưới lòng đất từ từ nảy mầm. Cũng vậy nhờ tiếng hét mà hạt giống Bồ-đề dễ nảy mầm nơi lòng người.

17.- Cử: Nam Tuyền nói: Tâm bình thường là đạo.

Niêm:        

Lạnh nói là lạnh, nóng nói là nóng.

Tụng:         

Rìu búa không cần, ngọc trắng tinh,
Đâu do mài giũa để cầu tân.
Đường về chẳng bước nhà vẫn tới,
Trao kẻ đầu non buông thõng tay.

Triệu Châu đến hỏi Thiền sư Nam Tuyền: Thế nào là đạo? Ngài đáp: “Tâm bình thường là đạo.”

Tâm bình thường là tâm gì? Có phải là chúng ta ngồi suy nghĩ trưa nay nấu món ăn gì, chiều nay làm việc gì, không tính chuyện trên trời trên mây, vậy có phải tâm bình thường chưa? - Chưa phải. Tâm bình thường không phải là nghĩ theo chuyện thông thường ở thế gian.

Niêm:

“Lạnh nói là lạnh, nóng nói là nóng.” Nói bao nhiêu đó là đủ, nó thế nào nói thế ấy, không nói thêm điều gì, đó là tâm bình thường.

Còn nói lạnh khó chịu quá hay nóng bực bội quá, không phải là bình thường, vì có phiền não gá vào trong đó. Tỉ dụ hôm nào trời lạnh, nói bữa nay trời lạnh là đủ, nếu nói thêm: bữa nay lạnh muốn run, thì đã qua nghĩa khác, vì có gá cái ta trong đó, không còn là sự thật của cái lạnh nữa. Nóng cũng vậy, nếu nói hôm nay trời nóng là đủ, không nói thêm nóng chịu không nổi, muốn nhức đầu, đó là qua ý khác rồi. Nghĩa là lạnh nóng ở ngoài đã đồng hóa với cái ta, nên chúng ta bực bội không thích. Còn nếu lạnh nóng như thế nào nói như thế ấy thì không có gì bực bội khó chịu. Thế nên lời niêm rất là hay: Tâm bình thường là lạnh nói lạnh, nóng nói nóng, đó là đủ rồi.

Hằng ngày tâm chúng ta có bình thường không? Chúng ta làm việc gì cũng muốn như ý, cũng theo sở thích của mình. Thí dụ gần nhất như trong chùa nuôi mấy con chó, tối đến có trộm vào mà chó không sủa. Sáng lại chó bị đánh vì tội không giữ chùa. Vì sao chúng ta không tự trách mình, các con chó đâu có biết gì. Chúng ta nuôi chó thì nuôi, còn sủa hay không là chuyện của nó. Thế nên tất cả những gì chung quanh, chúng ta đều bắt lệ thuộc vào cái ta, và nhìn muôn vật bằng bản ngã phóng đại ra, nên không thấy được lẽ thật. Người tu bắt buộc phải thấy được lẽ thật, phàm làm việc gì, nhìn vật gì cũng qua lẽ thật, không qua bản ngã. Vì bản ngã nên chúng ta luôn luôn có niệm thương niệm ghét, nếu thấy người nào không hợp với bản ngã của mình thì nói người ấy dễ ghét, nếu hợp với bản ngã của mình thì bảo dễ thương. Vậy bản ngã là do huân tập, huân tập cái gì thì nó theo cái ấy. Thí dụ như chúng ta huân tập theo cái nhìn của Đông phương thì thấy người nào có vẻ Đông phương mình ưa, huân tập theo Tây phương thì thấy vẻ gì hợp với Tây phương mình thích. Như vậy ưa thích theo huân tập đâu phải là thật, thế mà suốt ngày chúng ta sống theo huân tập, bị nó chi phối nên chúng ta phiền não khổ đau mãi. Chúng ta tu là phải thấy như thật, tôi đã giảng chữ như thị, tức là pháp của Phật là như thế, không có cái khác, có khác là tại chúng ta tô điểm thêm. Thế nên lạnh nói lạnh, nóng nói nóng.

Tụng:

Rìu búa không cần, ngọc trắng tinh,
Đâu do mài giũa để cầu tân.

Nói tâm bình thường là đạo, nghĩa là đạo đã sẵn trong tâm bình thường, giống như hòn ngọc trắng tinh đã sẵn nơi mình, đâu cần búa rìu đẽo đục mới trắng, cũng không do mài giũa thành mới, vì nó đã sẵn đẹp rồi. Không cần phải đục đẽo mài giũa, mà tu là phải mài giũa, đẽo đục, như thế có mâu thuẫn hay không? Tỉ dụ tượng Phật gỗ phải từ khúc gỗ trầm đục đẽo mới thành, nếu để khúc gỗ y nguyên trên bàn thì đâu có ai quì lạy. Tu là phải mài giũa, tuy ai cũng sẵn tâm bình thường, nhưng chúng ta quen tập theo thói bất bình thường, giống như một người trước kia tỉnh táo sau sanh ra cuồng loạn thì phải chạy chữa thuốc men, để trở lại bình thường. Cũng như vậy, sở dĩ chúng ta phải tu là để đưa tâm mình trở lại bình thường, vì hiện giờ chúng ta ít nhiều gì cũng đang là những kẻ bất bình thường, cần phải nhờ thuốc chữa trị mới lành bệnh.

Tâm bình thường là cái sẵn có, không thêm cái gì mới, chỉ hết bệnh trở về tình trạng bình thường cũ. Nên nói chỗ này không phải trau dồi, mài giũa mà tự nó là ngọc trắng rồi.

Đường về chẳng bước nhà vẫn tới,
Trao kẻ đầu non buông thõng tay.

Không cần bước đi mà vẫn tới nhà. Có khi Phật và chư Tổ nói: Đường luân hồi xa xôi diệu vợi, muốn trở về thật là khó. Nhưng có chỗ lại nói: Dưới gót chân ông, chớ không đâu xa. Tuy không phải xa mà thật ra cũng không phải gần. Nếu bỏ quên lối về nhà chạy lang thang mãi, dù cho nhà ở gần cũng thành xa. Nếu biết quay trở về thì tuy nói xa, thật ra ở ngay trước mặt, tức là rất gần. Thế nên không cần bước đi đâu, thay vì phóng ra chỉ quay trở lại, đó là trở về; từ chuyên môn gọi là hồi đầu thị ngạn, tức là xoay đầu trở lại là bờ này, là nhà cửa của mình, đơn giản làm sao! Như vậy gần xa là do thói quen, quen phóng ra thì thấy xa, biết xoay trở lại là bờ, chớ không có gì.

“Trao kẻ đầu non buông thõng tay”, không cần bước mà vẫn tới nhà, là chỉ có người ở đầu non mà buông thõng tay tự tại mới được.

18.- Cử: Triệu Châu nói: Mọi người bị mười hai thời sai khiến, Lão tăng sai khiến được mười hai thời.

Niêm:        

Cậy thế dối người, không nơi căn cứ.

Tụng:         

Lão này hay khiển mười hai thời,
Rồng dữ cọp hung thảy được thuần.
Cần phương chỉ sắt thành vàng thật,
Chẳng để cho người có việc nghe.

Nhân có vị Tăng hỏi: Trong mười hai giờ dụng tâm như thế nào? Ý muốn hỏi trong mười hai giờ mình phải tu như thế nào cho đúng với tinh thần đạo. Ngài Triệu Châu trả lời: “Mọi người bị mười hai thời sai khiến, Lão tăng sai khiến được mười hai thời.” Như hiện giờ chúng ta có bị mười hai thời sai khiến không, hay là sai khiến được mười hai thời? Nhìn chừng đồng hồ coi mấy giờ, cho đến lúc ngồi thiền cũng nhìn đồng hồ, như vậy từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, chúng ta bị đồng hồ sai khiến, tức là bị mười hai thời sai khiến, còn ngài Triệu Châu sai khiến được mười hai thời.

Niêm:

“Cậy thế dối người, không nơi căn cứ.” Ý muốn nói ngài Triệu Châu ỷ mình là người giỏi nên dối người không nơi căn cứ. Niêm như vậy có đúng không? Mười hai thời chỉ là giả định của con người chớ không có thật, làm sao sai khiến nó được?

Tụng:

Lão này hay khiển mười hai thời,
Rồng dữ cọp hung thảy được thuần.

Sai khiến được mười hai thời nghĩa là người đời chạy theo thời gian từng giờ từng phút, còn Ngài không dính mắc gì với thời gian. Nếu suốt ngày không bận bịu với thời gian tức là không trông đợi không mong chờ dù cho rồng dữ cọp hung cũng được thuần thục. Còn chúng ta đang trông đợi mong chờ nên khiển không nổi rồng dữ cọp hung. Sáng mong trưa, trưa đợi chiều, tâm mong chờ là hư dối làm cho mình mệt mỏi. Người không bị thời gian chi phối là người không còn tâm mong chờ, đó tức là Tâm chân thật thì rồng dữ cọp hung trong tâm không còn hung hăng nữa.

Cần phương chỉ sắt thành vàng thật,
Chẳng để cho người có việc nghe.

Muốn được diệu thuật chỉ sắt biến thành vàng thì không cho người có việc nghe, tức là ai còn hữu sự thì đừng mong được cái đó. Diệu thuật này chỉ có ở con người vô sự. Chúng ta chẳng những hữu sự mà còn đa sự nữa, nên không được nghe thuật kỳ diệu đó. Tại sao đa sự? Việc trong nhà mình, trong bản thân mình nhớ nghe cũng đã nhiều rồi, mà chuyện hàng xóm đâu đâu cũng muốn nghe, lại kể chuyện năm trên năm dưới cho người khác, như vậy có phải là đa sự không? Vì thế nên cả ngày tâm loạn tưởng điên đảo không phút nào yên. Câu kết luận chỉ cho chúng ta thấy muốn sử dụng được mười hai giờ chỉ có người vô sự, nếu còn đa sự thì không bao giờ sử dụng được.

19.- Cử: Tăng hỏi Lâm Tế: Thế nào là vô vị chân nhân? Lâm Tế đáp: Cục cứt khô.

Niêm:        

Bắn sẻ mất châu, ném chuột nhơ đồ.

Tụng:         

Vô vị chân nhân cục cứt khô,
Do người Thích tử mất gia phong.
Nhìn xuống xem xem, biết chẳng biết,
Con trâu vào biển dấu vết không.

Ngài Lâm Tế nói: Tất cả chúng ta đều có vô vị chân nhân ra vào ở ngay nơi mặt chớ không đâu xa. Vô vị chân nhân tức là con người chân thật không có ngôi vị, không có chỗ nơi. Câu tôi đã giảng: trong ngôi Phật pháp mời không ở, đó là chỉ người chân thật không ngôi vị.

Nhân có Tăng hỏi: “Thế nào là vô vị chân nhân? Ngài Lâm Tế đáp: Cục cứt khô.” Ngài đáp nghe thô tục quá, sao lại được khen hay? Nói câu đó chúng ta không còn gì để suy nghĩ. Ngay đó tâm mình đã lặng mà mình đâu có biết. Cứ nhớ sao thô quá, đó là khởi vọng tưởng điên đảo, nếu không suy nghĩ là vô vị chân nhân. Thành ra trả lời mà không trả lời gì cả. Hỏi một đàng: Thế nào là vô vị chân nhân? Lại đáp một ngả: Cục cứt khô. Nghe câu đáp, người hỏi dứt hết tâm suy gẫm nghĩ tính, không còn gì so sánh. Câu đáp đó là câu sống (hoạt ngữ), câu đặc biệt trong nhà Thiền.

Niêm:

“Bắn sẻ mất châu, ném chuột nhơ đồ.” Nghĩa là vì chuyện nhỏ như bắn chim sẻ mà mất hạt châu, muốn đuổi chuột làm nhơ đồ quí. Đó là nói câu đáp hơi thô tục một chút.

Tụng:

Vô vị chân nhân cục cứt khô,
Do người Thích tử mất gia phong.

Hỏi vô vị chân nhân, lại đáp cục cứt khô là vì người Thích tử không biết vô vị chân nhân là gì, nên buộc lòng Ngài phải đáp như vậy để họ giựt mình thức tỉnh.

Nhìn xuống xem xem, biết chẳng biết,
Con trâu vào biển dấu vết không.

Ngay nơi đó mình nhìn thẳng xem thử có biết hay không. Nếu xem rồi mới thấy chính câu trả lời chỉ cho mình cái chân thật rõ ràng, mà không có gì để suy gẫm, các vọng tưởng mê lầm đều dứt bặt, giống như con trâu nhảy ùm xuống biển không còn một chút dấu vết. Trái lại nếu giải thích vô vị chân nhân là một con người chân thật không ngôi vị, sạch hết những phiền não vọng tưởng v.v... làm người nghe suy gẫm đủ điều, như thế là dẫn họ đi trong mê lầm loạn tưởng.

20.- Cử: Triệu Châu nói: Khám phá bà già ở Ngũ Đài Sơn xong.

Niêm:        

Ngũ nghịch nghe sấm, chẳng cho bịt tai.

Tụng:         

Khảy móng Đài Sơn hết nói ngoa,
Chẳng phiền bước tới được về nhà.
Can qua chẳng động lòng người phục,
Gươm bén đâu cần ra hộp ngà.

Nguyên câu chuyện như sau: Có bà già ở gần đường đi Ngũ Đài Sơn, một vị Tăng tìm đường lên núi mà nghi không biết có đúng không, gặp bà già mới hỏi: Đường Ngũ Đài Sơn đi lối nào? Bà đáp: Đi thẳng. Tăng vừa đi, bà nói: Khéo, ông Thầy này lại đi thế ấy. Vị Tăng nghe, không hiểu bà muốn nói gì, mới về thưa lại ngài Triệu Châu. Ngài bảo: Để tôi lên khám phá bà già. Ngài đến gặp bà cũng hỏi: Đường nào đi Ngũ Đài Sơn? Bà nói: Đi thẳng. Ngài bắt đầu đi, bà già cũng nói: Khéo, ông Thầy này lại đi thế ấy. Khi trở về, Ngài tuyên bố giữa chúng: Tôi đã khám phá bà già ở Ngũ Đài Sơn rồi. Vậy Ngài khám phá cách nào? Đó là nghi vấn mà lâu nay chúng ta đặt ra.

Niêm: “Ngũ nghịch nghe sấm, chẳng cho bịt tai.” Đây là ý gì? Trong kinh nói: Người phạm tội ngũ nghịch phải đọa địa ngục. Cũng có người nói: Người phạm tội ngũ nghịch có thể bị trời đánh, vì vậy họ rất sợ sấm. Tội ngũ nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu. Nếu phạm tội ngũ nghịch, mà sấm nổ không cho bịt tai, tức là không cho sợ. Ý nói ông Tăng tìm đường lên Ngũ Đài Sơn, ông nghi không biết có đúng đường không, nên hỏi bà già. Nghe bà bảo: đi thẳng, thì ông tin ông đi. Nhưng bà nói: Lại đi thế ấy. Như vậy làm cho người đã nghi lại thêm nghi. Vì có nghi mới hỏi, hỏi rồi lại thêm nghi, giống như người phạm tội ngũ nghịch rất sợ sấm, đó là cái nghi trước. Nhưng khi nghe sấm nổ, không cho bịt tai, lại càng sợ thêm, tức là càng thêm nghi. Đó là thuật khéo của bà già.

Bài tụng nói lên ý của bà và của ngài Triệu Châu:

Khảy móng Đài Sơn hết nói ngoa,
Chẳng phiền bước tới được về nhà.

Chỉ trong khảy móng tay thì bà già ở Ngũ Đài Sơn hết nói ngoa, tức là hết nói gạt để người ta nghi nữa. Vì ngài Triệu Châu nói đã khám phá bà già rồi, không cần suy nghĩ tìm kiếm cũng về tới tận nơi.

Can qua chẳng động lòng người phục,
Gươm bén đâu cần ra hộp ngà.

Thế nên không cần phải có chiến trường mà đã chinh phục được người. Có gươm bén nhưng không cần mở hộp đem ra dùng, mà lòng người đã qui phục.

Tuy ngài Triệu Châu nói khám phá bà già, nhưng sự thật Ngài chỉ hỏi, bà trả lời mà nói đã khám phá rồi là để cho người yên lòng không còn thắc mắc. Đó là chỉ bà già không phải người tầm thường, bà chỉ cho mình đi thẳng. Nhưng chúng ta cứ tưởng đi thẳng là tới Ngũ Đài Sơn, không ngờ bà muốn chỉ thẳng cái mình sẵn có, vị Tăng không biết việc này nên cắm đầu đi thẳng lên Ngũ Đài Sơn. Thế nên bà già nói lại: Khéo, ông Thầy lại đi thế ấy. Đó là lối nói ngoa, không phải nói thật. Nhưng khi ngài Triệu Châu đến thì lời nói ngoa hết, ngay đó liền thấy được nhà. Như thế không cần lý luận, không cần tranh đấu mà đã hàng phục được người, cũng như gươm bén không cần ra khỏi hộp ngà mà giặc giã đều qui hàng. Đó là thuật khéo của ngài Triệu Châu.

Như thế chúng ta mới thấy những bà già bán bánh ở dọc đường khi xưa rất là kỳ đặc, làm các vị Tăng phải mệt đầu. Có nhiều bà già trông rất xoàng xĩnh mà vẫn biết đạo chớ không phải thường. Không phải chỉ có người xuất gia học đạo lâu năm mới hay, đừng tưởng lầm như vậy. Dù ở giai cấp nào hình thức nào, người khéo nhận khéo thấy khéo biết đường về đều là hay cả.

Ngài Trần Thái Tông quả là một nhà vua kỳ đặc, đa đoan việc nhà việc nước mà hiểu đạo hiểu Thiền thật cao siêu. Còn chúng ta hiện nay rảnh rang trăm bề mà thấy đạo cạn cợt ở ngoài da, nghĩ có hổ thẹn không? Càng hổ thẹn chúng ta càng phải noi gương Ngài cố gắng nỗ lực tu hành, đừng để thua kém quá xa.

Mục Lục