|
Sơn Cư Bách Vịnh
Phần 4
BÀI 81 Âm: Sơn cư hưu bả tự tâm man, Thỉ thức đăng cao nhãn giới khoan, Phóng khứ đại thiên già bất trụ, Thâu lai chỉ tại nhất hào đoan. Nghĩa: Ở núi chớ gạt cõi lòng ta, Mới biết lên cao mắt thấy xa, Buông đó cõi trời che chẳng khắp, Gom về chỉ gọn mảy lông mà. CHÚ: Dụng công miên mật đến chỗ công phu thành khối rồi thì tinh tường tất cả, quán xuyến cùng khắp. Cũng như kẻ lên cao, càng lên cao nhãn giới càng mở rộng nhìn khắp bao la, không bị hạn cuộc và chướng ngăn. Đến chỗ này rồi, thì phải khéo léo, đã miên mật cần liên tục miên mật hơn nữa. Đã nỗ lực lại càng nỗ lực miên miên mật mật gấp bội. Thời tiết nhân duyên đến một tiếng nổ thôi, bình minh ló dạng. Mọi thứ vỡ toang rồi thì bình thường an lạc trở về. Khi này tạm thốt câu: “Đất nước tôi thanh bình” cũng không sao!
BÀI 82 Âm: Sơn cư tri thức dị thường luân, Minh cảnh đương đài biện nghiệm nhân, Nghiêm xú nan man đô chiếu xuất, Bản lai minh cảnh tuyệt sơ thân. Nghĩa: Ở núi quen biết chẳng ngại ngần, Gương sáng đài cao nghiệm lựa nhân, Tốt xấu khó che đều rọi suốt, Xưa nay gương sáng chẳng sơ thân. CHÚ: Chỗ vì người của người tu có khác không như thường tình qua lại với nhau. Tình hình này cũng như gương trên đài cao chiếu nghiệm đường tơ kẻ tóc chẳng lầm chẳng sót. Vừa có chút tình niệm xen vào tức nhiên gương mờ bụi phủ, lăng xăng mất tâm. Thế ấy, làm sao thấu suốt mọi lẽ xưa nay? Nên nói: “Xưa nay gương sáng chẳng sơ thân”. Tóm lại còn vọng khởi là còn dụng công, còn dụng công là chưa suốt tột. Bao giờ thể nhập tâm cảnh đều bặt lặng lẽ như như mới hoàn toàn thấu triệt và suốt xưa suốt nay, không vật ngăn ngại là gì? Trên cao mưa ít gió nhiều.
BÀI 83 Âm: Sơn cư tiểu bích cảm nhiên hàn, Bảo kiếm đương hiên thục cảm khan, Ngoại đạo tà ma câu não liệt, Lão tăng thiền định chánh khinh an. Nghĩa: Ở núi đá dựng lạnh vô vàn, Kiếm báu treo hiên loé nhãn quang, Chẻ óc tà ma phường ngoại đạo, Thầy già thiền định vẫn vui an. CHÚ: Hàng ma kiếm là kiếm báu dùng để hàng phục quân ma ngoại đạo. Người sử dụng phải là trang hảo hán, bọn thường nhân nghe hỏi lạnh kiếm quang cũng đã khiếp đảm kinh tâm rồi nói gì sử dụng với không sử dụng. Hành giả trong Tông môn với hai thứ thiền định và trí huệ là dũng cảm và gươm báu hay đánh dẹp tà ngoại, tạo thế thăng bằng cho hành giả trong khi hạ thủ công phu. Định huệ là bất động và kiếm báu với lại người tu nó là thứ vũ khí tối cần, dùng để hộ thân là Thiện tri thức bậc nhất không thể thiếu của người tu.
BÀI 84 Âm: Sơn cư biệt thị nhất gia phong, Bất dữ nhân gian thú vị đồng, Mộc mã bôn tê thiên ngoại khứ, Yểu vô âm tín tuyệt hành tung. Nghĩa: Ở núi riêng dựng một gia phong, Chẳng với người đời thú vị đồng, Ngựa gỗ trông mây dong ruỗi hí, Bặt không âm tín dứt hành tung. CHÚ: Niềm an lạc thiền tịch của hành giả ngoại nhân không thể sánh kể. Tùy sức dụng công của đương sự mà hưởng được tịch lạc khác nhau. Đây là chỗ “Riêng tạo một gia phong”. Các hành giả khi công phu đã thuần lặng rồi thì duyên cảnh trước mắt không là trở lực nữa mà đều biến thành biển trí an nhiên giải thoát, ngay trong cõi an vui đó cũng không lộ bày dấu vết, bặt dứt âm tín, một trời thênh thang. Bấy giờ “Ngựa gỗ mặc tình dong ruỗi hí”.
BÀI 85 Âm: Sơn cư lộ hiểm tín nan thông, Hạt hán yên năng đạt thử tông, Chỉ hứa tác gia thi thủ đoạn, Tương phùng tận tại bất ngôn trung. Nghĩa: Ở núi đường hiểm khó thông nơi, Mù mắt làm sao đến thảnh thơi, Chỉ bậc tác gia tung thủ đoạn, Gặp nhau ngay chỗ trọn không lời. CHÚ: Chỗ đã dứt bặt thì khó thông tin tức. Vì thế người mê tối kém yếu, không làm sao vào nổi tông này. Nên nói: “Mù mắt làm sao đến chốn này”. Chỉ các bậc tác gia thi thố thủ đoạn, chúng ta có thể từ cửa này mà vào, nếu là người có chút hơi hám. Trái lại thì mù mờ suốt kiếp trôi giạt mênh mang. Tuy nhiên chỗ thương lượng của cửa này cũng không nhiều lời lải nhải. Người xưa nói: “Ta vì ông nhổ đinh tháo chốt” khiến ông được tự tại, lại nói không có một chút pháp gì là cố định là thật cả. Ở đây bảo “Gặp nhau ngay chỗ hoàn toàn vô ngôn”. Là chỗ nào? Chớ lầm!
BÀI 86 Âm: Sơn cư khách đáo vấn thiền tông, Thủy giác tùng tiền thác dụng công, Khai khẩu dĩ tri lai lịch sử, Khả lân bất thức ngộ chân không. Nghĩa: Ở núi khách đến hỏi thiền tông, Mới biết từ xưa lỗi dụng công, Mở miệng đã thông nơi gốc rễ, Thương thay chẳng biết rõ chân không. CHÚ: Người tu chúng ta phần nhiều bị lỗi tạp dụng công, do tạp dụng công nên lăng xăng, công phu không thuần nhất. Bởi công phu không thuần nhất nên khó kết thành khối. Kẻ hở này, đưa đến tình trạng dù hành giả có khó khổ dụng công đến đâu, vẫn chưa hiện tiền. Đã vậy làm sao phá nổi khối si mê nhiều kiếp, lấy lại tư thế an bình tỉnh sáng cho chính mình? Thế nên ở đây nói: “Thương thay chẳng biết rõ chân không”. Ấy cũng bởi “từ xưa lỗi tại chỗ tạp dụng công” là vậy.
BÀI 87 Âm: Sơn cư ngộ đắc nhứt chân không, Na vấn Nam tông dữ Bắc tông, Như ý Bửu Châu trì tại thủ, Quang minh hà xứ bất viên thông. Nghĩa: Ở núi rõ được lẽ chân không, Sao hỏi Nam tông với Bắc tông, Như ý Bửu Châu tay nắm giữ, Chốn nào soi sáng chẳng tròn thông. CHÚ: Đã nhận lẽ chân không, cần gì hỏi Nam tông với Bắc tông. Người đã qua cổng đâu cần hỏi kẻ giữ cổng. Khi này mặc tình mà dùng du hí tam muội dạo khắp đó đây; “cướp của kẻ đói”, cho cơm người cày, buông một cái nữa cái, giúp người qua cơn ngặt. Ngày ngày sống lý thú bởi trong ta có sẵn hạt Như ý Bửu Châu. Chỗ nào ta lại thiếu thốn? Nơi đâu ánh sáng Bảo Châu lại không soi đến? Chạy loạn làm gì vô ích? Hãy dừng. Dừng! Dừng!
BÀI 88 Âm: Sơn cư học Đạo vị vi gian, Duy hữu an tâm thủ đạo nan, Bách xích can đầu trùng tấn bộ, Nhứt chùy đả toái Tổ sư quan. Nghĩa: Ở núi học Đạo chửa gian nan, Chỉ khó gìn sao Đạo vẹn toàn, Trăm thước đầu sào thêm bước tiến, Một chùy cửa Tổ đập tan hoang. CHÚ: Việc mình đã sáng, hướng dẫn người cũng xong là một điều rất khó. Đây là chỗ tình lý phải hợp, cơ duyên hội đủ, mới hoàn thành công việc được. Kinh nói: “Khế cơ, khế lý”, là điểm ta phải hoàn chỉnh trong công tác tự tu và bố giáo. Hai điều kiện này kém một coi như bất thành. Nhiều khi ta cứ cưỡng làm bất chấp nhân duyên thời tiết, sự kiện này tai hại vô cùng. Lại, chúng ta càng dè dặt hơn đối với công phu tu hành, trong lòng không nên bám giữ bất cứ gì, mà ta phải dũng mãnh một bề tiến bước. Tổ sư bảo: “Đầu sào trăm trượng nên tiến bước”. Được vậy thì “Một chùy đập nát cửa Tổ sư”.
BÀI 89 Âm: Sơn cư hồi thủ thán qui dư, Thức phá nguyên lai tổng thị hư, Mạc khứ duyên môn cùng khất thực, Tự gia y lý hữu minh châu. Nghĩa: Ở núi quay lại muốn về ư? Biết rõ nguyên lai cả thảy hư, Lần cửa xin ăn đừng thế ấy, Minh châu trong áo giàu có dư. CHÚ: Khi chúng ta nhìn thấu, thấy rõ nguyên lai các pháp thì trước mắt chúng ta mọi thứ mọi cái, muôn hình vạn trạng đều là giả huyễn không thật và chúng ta đã khám phá biết các pháp là hư huyễn không thật rồi thì cái tình đắm mến đối với các pháp trong mỗi người chúng ta nhẹ dần. Từ đó thăng hoa, cứ chiều hướng ấy phát triển hơn lên, tức nhiên chúng ta cũng sẽ vững niềm tin nơi lời Phật dạy là: “Mỗi người chúng ta đều có sẵn hạt châu quí báu trong chéo áo”. Thế thì tại sao chúng ta chưa chịu nhận lại hạt châu của mình mà cam nghèo khó xin xỏ các nơi.
BÀI 90 Âm: Sơn cư thanh khổ bất xa hoa, Khách đáo cao thang tiện đáng trà, Cụ nhãn thiệt đầu tri vị hảo, Thông thân sái lạc tảo qui gia. Nghĩa: Ở núi nghèo sạch chẳng xa hoa, Nước lá thay trà đãi khách xa, Mắt sáng lưỡi kề biết vị tốt, Toàn thân nhẹ nhỏm sớm về nhà. CHÚ: Cảnh đạm bạc của Sơn môn, lá rừng thay trà đãi khách khi cần. Từ kiếp xa xưa chúng ta đã lăn lóc trong lục đạo, đã nếm trải đủ mùi cay đắng. Giờ đây những thứ đó không còn làm lầm chúng ta được nữa, nó không đủ sức hấp dẫn chúng ta vào đường đam mê chìm đắm được nữa. Dù vậy chúng ta phải luôn luôn mãnh tỉnh, phải sống thực với ông chủ thật của mình. Được thế chúng ta mới nhẹ mình đủng đỉnh sớm về nhà. Phải tỉnh tỉnh chớ lầm vọng tưởng. Phải luôn luôn khắc phục bản năng của mình.
BÀI 91 Âm: Sơn cư thường ẩn bạch vân gian, Đạo tại kỳ trung ý tự nhàn, Công án hiện thành nhơn bất thức, Ngoại tuần chi diệp cưỡng truy phan. Nghĩa: Ở núi mây trắng ẩn trong đây, Đạo ở bên trong ý tự hay, Công án hiện thành người chẳng biết,
Tìm ngoài cành lá để leo cây. CHÚ: Chủ lực của công phu hành trì là ở bên trong, tự ta ta nhận ta hưởng mà thôi. Đối với công phu tham cứu cũng như thế, phải là bậc tác gia, là người sáng mắt mới nhận ra công phu có đắc lực hay không đắc lực, công phu tham cứu công án có hiện thành hay không hiện thành. Nếu chỉ căn cứ bên ngoài mà đánh giá thì, chẳng khác người muốn leo cây, mà chỉ tìm đường bên ngoài cành lá mà leo. Như thế chắc chắn người đó không thể leo được, trái lại còn nguy hiểm tánh mạng là khác.
BÀI 92 Âm: Sơn cư hoàng diệp trục phong phiêu, Thủ ác không quyền diệc bất tiêu, Phật Tổ chỉ truyền gia lý sự, Phùng nhơn lại đắc khẩu lao thao. Nghĩa: Ở núi phất phới lá vàng rơi, Một nắm tay không thông khắp nơi, Phật Tổ chỉ truyền trong việc Đạo, Gặp người trễ biếng miệng nhiều lời. CHÚ: Tay không dỗ con nít khóc hay nắm lá vàng trong tay để dỗ con nít là nói lên phương tiện của người xưa tạm thời mượn một việc gì đó, để chỉ cái quan trọng muốn chỉ. Đây cũng bởi người tin chưa đến nên mới bày ra tạm mượn thôi, cũng như ngón tay không phải mặt trăng, người có trí rõ nhơn ngón tay chỉ mặt trăng mà thấy được mặt trăng thật. Chính thế đức Thế Tôn đâu không từng tuyên bố: “Giáo pháp của ta cũng như ngón tay chỉ mặt trăng, khác nào nắm lá vàng dỗ con nít khóc”. Chúng ta hãy nhơn sự kiện này mà nhận ra cái thật trước mắt. Làm sao nhận? Thôi chớ chạy.
BÀI 93 Âm: Sơn cư diệp lạc tất qui căn, Độc lộ chân thường hiển pháp thân, Thử sự bất minh đa phí lực, Bá thành yên thủy diểu vô ngân. Nghĩa: Ở núi lá rụng thảy về căn, Bày hiện chân thường tỏ pháp thân, Việc đó chẳng rành hao sức lắm, Trăm thành nước lửa rộng không ngần. CHÚ: Tất cả mọi phương tiện đều trở về một mục đích duy nhất là: Tỏ ngộ Phật thừa, bày hiện chân thường, thể nhập pháp thân. Đấy là chỗ: “Đồng quy nhi thù đồ”. Người hạ thủ công phu nắm vững yếu chỉ này đồng thời phải tập trung chủ lực ý chí vào mục đích chánh, tránh chạy lăng xăng chung quanh mất công vô ích. Chúng ta hãy nêu cao khẩu hiệu: “Hành động cho Phật đạo, tất cả cho giải thoát”. Dồn mọi năng lực vào một điểm duy nhất là “trở về nguồn”. - Lải nhải gì? - Cũng không ngoài nhắc nhau việc bổn phận. - Khéo giữ chút hơi hám.
BÀI 94 Âm: Sơn cư đạo giả hữu hà năng, Pháp pháp toàn chương tối thượng thừa, Thuấn mục giương my giai Tổ ý, Niêm thùy thụ phất diệc chân tình. Nghĩa: Ở núi nhà đạo tài chi hơn, Mỗi pháp toàn bày tối thượng thừa, Chớp mắt nhướng mày đều ý Tổ, Niêm chùy dựng phất cũng tình chân. CHÚ: Chỉ có một Phật thừa, hay mỗi pháp toàn bày thượng thượng tối thượng thừa, bởi lẽ chớp mắt nhướng mày đều ý Tổ, niêm chùy dựng phất thảy toàn chơn. Đó cũng là những chiêu thuật sở trường của sãi núi này và là chỗ lịch đại Tổ sư, mười phương Thiện tri thức, các Ngài nêu biểu cho nhau, truyền thụ cho nhau, các bậc tác gia, sử dụng diệu thuật vì người thì các Ngài nắm cát thành vàng, với cuộc đời vô sở trú, nhưng có trú chỗ nào thì cũng đều là Tịnh Độ, là Đạo tràng, đều thụ dụng an lạc. Kẻ thiểu trí si mê khởi kiến giải phàm thánh, liền bị phàm thánh buộc, đời nào ra khỏi. Thật đáng thương!
BÀI 95 Âm: Sơn cư phú ốc chỉ chiêm mao, Lãnh đạm tình hư tuyệt thế giao, Nhứt phiến bạch vân hoành cốc khẩu, Kỷ đa qui điểu tận mê sào. Nghĩa: Ở núi nhà lợp chỉ bằng tranh, Dứt hết giao tình giữ đạm thanh, Mây trắng dừng ngang che cửa động, Chim chiều quên ổ lượng chung quanh. CHÚ: Tự túc tự cường là tinh thần độc lập cao quí của người tu, dứt hết giao tình, sống đời thanh đạm là đức tánh sáng suốt hay đẹp của người quy ẩn, mọi người kính cẩn. Trong dãy núi cao, nơi mây phủ cửa động, chim luyện trên không, chính nơi đó hàng Đạo nhơn vô tâm, an nhiên tự sống. Tỉnh lực trí huệ các Ngài, toàn thành dung hóa, tạo một lẽ sống, một nếp sinh hoạt cao quý sáng ngời, cũng chính nơi đó là cao điểm phát xuất và hòa tấu khúc Tông phong thanh cao vi vút. Người nghe được giải thoát. Người sống được bất động. - Tuy nhiên cũng không việc gì ngoài ta mà có. - Khéo dựng lấy gia phong của mình.
BÀI 96 Âm: Sơn cư hồn bất yểm cư sơn, Tựu thọ tru mao phược bán gian, Nhứt cá lão tăng do thị trách, Khởi dung tục khách đáo thiền quan. Nghĩa: Ở núi chẳng chán cảnh núi non, Tranh lá sơ sài am cỏn con, Chỉ một lão tăng còn chật hẹp, Khách trần tá túc chỗ đâu còn. CHÚ: Am tranh gọp đá núi rừng, dựng lên một hình ảnh đơn sơ đạm bạc tô thành một lẽ sống thanh cao siêu thoát. Là nơi không bạn bè khách khứa, không ồn ào rộn ràng, tuy nhiên rất hùng, chỉ một màu tịch liêu, cô quạnh mênh mông vắng vẻ. Người ở đấy hai tay buông thỏng, sự nghiệp cuộc đời tất cả chỉ là ảo mộng. Chân thấp chân cao thống khoái từng bước thênh thang nơi chốn núi rừng, nhìn xem tuồng đời ảo hóa, thấy cuộc tồn sinh này không hơn một trò đùa, tiêu dao mà ngậm ngùi, thích thú mà đổ lệ. Là cái quái gì? - Mộng huyễn không hoa nhọc nhằn nắm bắt! - Mộng huyễn tan rồi thì sao? - Mặc tình rong chơi.
BÀI 97 Âm: Sơn cư kiến đạo dĩ vong sơn, Vạn pháp do lai bổn tự nhàn, Nam Bắc Đông Tây hồn bất biện, Thử thân thường tịch thái hư gian. Nghĩa: Ở núi thấy đạo đã quên non, Muôn pháp đều như tự vuông tròn, Bốn hướng như nhau phân chẳng được, Thái hư chốn ấy dưỡng thân toàn. CHÚ: Nhận được ông chủ (tâm), khách khứa đều dang, sống với tâm, cảnh ngoài liền bặt. Tâm cảnh tự như rồi thì làm ông Thầy vô sự, tháng ngày qua chỉ nhàn thôi. Tổ sư bảo: “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm”. Muốn bảo nhiệm việc này, phải nhẹ nhẹ tỉnh tỉnh chớ lầm. Khi này hoàn toàn thoát thể, không bị ràng buộc bởi bất cứ cái gì, là chỗ “Ưng vô sở trụ”. Chính nơi đây, đạo nhơn vô tâm an dưỡng, tiêu dao tự tại nên nói: “Tâm thể trùm khắp” cũng là “Thái hư chốn ấy dưỡng thân toàn”.
BÀI 98 Âm: Sơn cư mãn mục thị thanh sơn, Tuấn điệp kỳ khu hành lộ nan, Hành đáo thủy cùng sơn tận xứ, Tự nhiên đắc bảo bất không hoàn. Nghĩa: Ở núi đầy mắt ấy non xanh, Cao thấp quanh co đá chập chồng, Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không. CHÚ: Thanh sơn mãn mục là một cách toàn phóng toàn cảnh. Bên trong ngỏ lối quanh co, đá dựng chập chồng gồ ghề hiểm trở. Tuy nhiên hành giả phấn đấu quyết bước cho đến chỗ sơn cùng thủy tận, chỗ tột cùng của mọi quanh co khó khổ. Tự nhiên trời long đất lỡ, một phen chuyển thân nhảy thẳng vào chỗ an ổn. Người xưa nói: “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ Liễu ám hoa minh biệt nhất thôn”. Ở đây dạy: Đi đến nước cùng non tận chỗ. Tự nhiên được báu chẳng về không. Chỗ nào? Sắc tức là không, không tức sắc.
BÀI 99 Âm: Sơn cư diệc tại khổ Ta Bà, Bách tuế quang âm nhứt sát na, Tận thử báo thân sanh Cực Lạc, Tiền đầu hiểm lộ dĩ vô đa. Nghĩa: Ở núi vẫn ở cõi Ta Bà, Trăm tuổi nhanh như một sát na, Ngay báo thân này tròn vóc Phật, Trước đầu lối thẳm đã gần qua. CHÚ: Thấy Đạo là thấy được tâm thể an nhiên của mình. Người thấy Đạo là người sống mà bất động. Không bị trôi giạt theo trào lưu vọng tưởng, chợt khởi chợt hiện của mình. Kẻ này gọi không đứng, mắng chẳng đi, lờ lờ mà sáng suốt, lặng lặng mà hằng soi thấu xưa nay. Tóm lại, kẻ này không còn bị gạt và cũng không có cái gì có thể kéo lôi được. Chỗ kẻ này ở là bất động Đạo tràng, nơi kẻ này đến là như như Phật quốc. Kẻ này có thể kéo một sát na dài bằng vô lượng kiếp, thâu ngắn kiếp vô lượng vào trong một sát na. - Kẻ này là gì? - Tháng ngày qua vô sự Tăng.
BÀI 100 Âm: Sơn cư độc xử lạc thiên chơn, Minh nguyệt thanh phong chuyển pháp luân, Nhất đại tạng kinh đô thuyết tận, Bất tri thùy thị cá trung nhơn. Nghĩa: Ở núi riêng cõi giữ thiên chơn, Gió mát trăng thanh chuyển pháp xong, Một đại tạng kinh đều nói hết, Biết ai là kẻ ở bên trong. CHÚ: Người thể nhập chân như đã thu gồm tất cả về một mối rồi thì có thể chuyển ngay thân tâm này thành Đại giải thoát. Thân là pháp thể thanh tịnh trùm khắp, Tâm là Bát Nhã sáng suốt vô biên, tất cả cảnh đều là Phật cảnh, Phật sự, thời gian, không gian chuyển hóa bình đẳng vô trước. Tóm lại, đây là cảnh giới của “sự sự vô ngại”, mọi hiện tượng thấp, cao, phàm, thánh, phược, thoát, trí, ngu … đều vắng bóng, biến dạng. Kinh nói rằng: “Ta người đều bặt, tâm cảnh nhất như”. Một tiếng quát!
Mục Lục
|