|
Sơn Cư Bách Vịnh
Phần 1
Âm: Sơn cư cổ cảnh cửu mai trần, Kim nhật trùng ma khí tượng tân, Ngân cấu tịnh trừ quang thủy hiện, Phân minh diện kiến bổn lai nhân. Nghĩa: Ở núi gương xưa bấy lâu vùi, Nay mới chùi lau dáng vẻ tươi, Bợn nhớp sạch rồi gương lấp lánh, Rõ ràng tạn mặt bấy nay người. CHÚ: Gương xưa tức là bản thể của tự mình, con người thật xưa nay, tức là tự tánh thanh tịnh tâm. Từ bản thể dấy niệm và lao theo, tức nhiên vô vàn đau khổ, sinh tử luân hồi bày hiện. Chính ngay bản thể một bề trong lặng, niệm dấy liền buông. Nơi đây mọi oan kết tức thời chìm lặng và, con người thật xưa nay trước mắt. Chỉ khéo sống và sống an nhiên thôi!
BÀI 2 Âm: Sơn cư lực học ngộ Thiền tông, Nhật dụng tiên tu đạt khổ không, Bất thức bổn lai chân diện mục, Niêm hoa vi tiếu táng gia phong. Nghĩa: Ở núi dùi mài tỏ Thiền tông, Vào cửa công phu rõ khổ không, Chẳng biết xưa nay mày mặt thật, Niêm hoa vi tiếu mất gia phong. CHÚ: Vào cửa trình nhau phải đầy đủ mặt mắt thật xưa nay của mình. Bước đầu công phu cố gắng gổ để thấu rõ giả chân, kế lại quyết liệt dọn mình, một nhảy vào thẳng thế giới uyên nguyên. Nói thế e rằng trái phạm chăng? Thôi hãy buông, một chữ buông thôi! Chớ chạy quàng xiên tìm kiếm vụn vặt bên ngoài. Định thần nhìn lại, gì là mặt mắt thật xưa nay của chính mình? Khéo, khéo. Một nụ cười vô biên nở rộp… Thử nói xem là gì?
Bài 3 Âm: Sơn cư u ẩn bạch vân thâm, Học đạo tiên đương yếu thức tâm, Đại tắc phóng chi chu pháp giới, Quyển chi tắc thối bất dung châm. Nghĩa: Ở núi mây trắng phủ hang sâu, Học đạo rõ tâm ấy bước đầu, Lớn ắt buông ra trùm pháp giới, Thu vào chẳng lọt mũi kim đâu. CHÚ: Rừng núi hang sâu với mây phủ muôn đời vẫn là quê hương, là hang ổ của đạo nhân vô tâm. Nhưng đấy cũng chỉ là một cách nói thôi. Còn có một yêu cầu khác có vẻ cấp thiết hơn nữa của người học đạo là phải “biết tâm”. Tâm ấy: “Diệu dụng như hằng sa, buông ra trùm khắp pháp giới, thu vào mũi kim không qua”. Thế thì tâm là gì? - Phải biết rằng thiên đường, địa ngục cũng không ngoài nó mà ra. - Lớn thay! Tinh mật thay!
Bài 4 Âm: Sơn cư học Đạo chỉ cầu tâm, Hà tất khu khu hướng ngoại tầm, Cử bộ tiện ưng đăng bảo sở, Mạc tương hoàng diệp đáng chân kim. Nghĩa: Ở núi học Đạo chỉ tìm tâm, Lựa phải khư khư mãi chạy rông, Cất bước chính là lên bảo sở, Chớ đem lá úa thế vàng ròng. CHÚ: Người học Đạo quan thiết chỉ cốt tìm tâm. Phải sống thật với tâm. Tâm là Bảo Sở, ngoài tâm không có gì khác có thể thay thế tâm. Do đó dù trải qua bao nhiêu gian lao nguy khốn, mục đích của hàng đạo nhân là sống thật với tâm mình, buông bỏ tất cả vọng tưởng lăng xăng bên ngoài. Việc làm đấy gọi là công phu, gọi là trở về. Ngoài việc làm đấy cũng chưa khỏi có chút dính dáng. Thử nhìn lại xem! Là cái gì?
Bài 5 Âm: Sơn cư phản chiếu khán tâm điền, Thối bộ nguyên lai thị thượng tiền, Mật mật công phu vô gián đoạn, Tất đương tham thấu Tổ sư thiền. Nghĩa: Ở núi xoay lại xét tâm điền, Thối bước ngờ đâu tiến bước liền, Bám sát công phu không dứt đoạn, Tất nhiên soi thấu Tổ sư thiền. CHÚ: Người tu hằng xét tâm mình, bỏ quên tất cả. Tình huống này bên ngoài trông như thối hóa, nhưng với kẻ chân tu, ngay nơi thối hóa này tỉnh táo, chấn chỉnh công phu, không chút sơ hở, gọn gàng và sáng suốt tiến bước. Hãy bước từng bước một thật vững chắc. Đừng sợ mình ngu. Chỉ sợ mình không ngu được thôi. Người xưa nói: - Thầm thầm dụng công. Khéo khéo buông vọng tưởng là vậy. Nhìn gót chân mình mà đi!
Bài 6 Âm: Sơn cư tịch tịch dưỡng lương tri, Duy tại đương nhơn tự bảo trì, Tình niệm dịch lai vi đạo niệm, Quả nhiên thành Phật dĩ đa thì. Nghĩa: Ở núi lẳng lặng dưỡng lương tri, Cốt ở người tu tự bảo trì, Tình niệm đổi ra thành đạo niệm, Quả nhiên thành Phật khó khăn gì? CHÚ: Bước đầu dụng công, nên chọn chỗ tương đối yên tĩnh để dễ dàng điều dưỡng thân tâm, giữ gìn tánh giác của mình. Trong sinh hoạt hằng ngày, chỉ tỉnh táo siêu độ tất cả tình phàm lượng Thánh. Mảy may dấy khởi liền buông, dù ma hay Phật một lúc cũng đều siêu độ. Có như thế đất Phật thênh thang, tháng ngày tự tại, rong chơi thích thú. Khi này thử hỏi ta là gì? Thế ấy chưa bảo đảm được kế lâu dài. Một tiếng quát! Cũng chưa phải.
Bài 7 Âm: Sơn cư xích sái tịnh vô ai, Chung nhật như ngu dưỡng thánh thai, Bổn phận sinh nhai thùy thức đắc, Thế nhân hàm tiếu ngã si ngai. Nghĩa: Ở núi gột sạch lớp bụi dày, Ngày lụng như ngu dưỡng thánh thai, Bổn phận mình làm ai biết được, Mặc cho cười mỉa tớ si ngây. CHÚ: Bổn phận của người tu là buông hết tình phàm thánh, siêu vượt mọi phan duyên, phấn chấn tinh thần, luôn luôn khắc tiến. Gương tráng sĩ chặt tay thuở nào trên Tung đỉnh đó là một đao kiên quyết đứt đoạn sợi dây sống chết, bước lên trời đất thênh thang mà đi. Người xưa bảo: “Muốn giăng bắt phượng hoàng lưới diệu, chớ noi theo chim chóc chí hèn. Đà buông câu kình ngạc lưỡi thần. Đừng sợ lụy ễnh ương phận nhỏ…”
Bài 8 Âm: Sơn cư mao ngỏa trúc vi duyên, Thủ đạo an bần lạc tự nhiên, Tận nhật bế quan vô biệt sự, Trường thân lưỡng cước chẩm vân miên. Nghĩa: Ở núi tre lau kết nên am, Giữ đạo an nhiên vui tháng ngày, Cửa đóng thanh nhàn không việc khác, Duỗi chân nằm ngủ gối thang mây. CHÚ: Người nhàn cảnh nhàn siêu thoát, người như cảnh như diệu huyền. Khi này sãi núi an nhiên, không còn vật dục sở hữu nào chung quanh quấy rối. Một thân nghèo vui với Đạo, cửa đóng không việc gì duỗi chân nằm ngủ yên. Ô hay! Phàm thánh đồng triền, nói chi diệu huyền với siêu thoát? Nhưng hang ổ này cũng chưa ổn, phải một phen nhào lộn, trời nghiêng đất lỡ mới có chỗ yên thân. Tuy vậy lầm! Lầm! Phải thức dậy, trông phương Nam tìm sao Bắc Đẩu. Nhớ lấy hôm nay!
Bài 9 Âm: Sơn cư phong cảnh dị nhân gian, Vân điểu phi hành tự vãng hoàn, Vật ngã nhất như vong bỉ thử, Sài môn tuy thiết vị thường quan. Nghĩa: Ở núi phong cảnh khác nhân gian, Mây điểu bay đi biết vãng hoàn, Ta vật như nhau quên khác loại, Cửa ngoài tuy có chẳng từng quan. CHÚ: Ở núi phong cảnh thiên nhiên mây chim sinh hoạt. Vật ngã đều quên, bỉ thử vắng bóng. Cửa ngoài tuy có, chẳng đóng bao giờ. Đúng là nơi bặt dấu chim chồn, toàn thuần long tượng. Nơi đây người lặng, cảnh lặng cửa nẻo toàn không. Nói gì đóng với không đóng? Đi ngã nào? Lên thẳng! Trên đó có gì? Trời xanh! Nếu là tay hảo hán nên rống một tiếng “hư”, rồi mặc tình thong dong. “Tháng ngày qua vô sự Tăng…”
Bài 10 Âm: Sơn cư tự cổ viễn hiêu trần, Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, Phong nguyệt mãn hoài cùng khoái hoạt, Cao ca nhất khúc họa dương xuân. Nghĩa: Ở núi từ lâu lánh xa trần, Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, Trăng gió đầy lòng vui tột bực, Nghêu ngao một khúc họa dương xuân. CHÚ: Đạo nhân vô tâm, ngày ngày vui sống, không bận mảy may. Rừng núi đậm đà hương giải thoát. Mây trắng sực nức vị thanh lương. Thôi thì chân thấp chân cao, mặc tình phóng khoáng. Ấy đấy, một khúc nửa khúc nghêu ngao thỏa lòng… Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang, Chống gậy chơi rong chừ phương ngoại phương, Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi, Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương. Chà! Chà!
Bài 11 Âm: Sơn cư lão nạp bá vô năng, Cúng Phật thường nhiên nhất trản đăng, Bất giả thiêm du quang xán lạn, Thập phương thế giới tất viên minh. Nghĩa: Ở núi già cả vụng trăm đường, Đèn tâm dâng cúng đấng pháp vương, Đâu rảnh thêm dầu đèn vẫn sáng, Làu làu tỏ rạng khắp mười phương. CHÚ: Sãi già ở núi trăm điều vụng quê. Ngày ngày chỉ biết khêu sáng ngọn đèn tâm của mình dâng lên cúng dường mười phương hiền thánh, lịch đại Tổ sư. Chính ngọn đèn tâm này là mạng mạch của Phật pháp, là chỗ chân truyền xưa nay. Do đó bậc thức giả trong Tông môn phải nên gánh vác việc này. Một việc này nếu chưa hoàn tất, mà chỉ Đông chỉ Tây chạy lăng xăng bên ngoài, đó chỉ là ta tự dối ta mà thôi, hoặc ta là kẻ đếm của báu cho người, cam phận nghèo thiếu suốt kiếp. Đáng thương thay!
Bài 12 Âm: Sơn cư nhật nhật thị lương triêu, Lệ phạn sung trường thủy nhất biều, Thùy thức lão tăng cùng đáo để, Đình tiền bá tử đáng hương thiêu. Nghĩa: Ở núi bửa bửa sống an thường, Cơm hẩm no lòng nước thanh lương, Ai biết thầy già nghèo đáo để, Trước sân cây bá thế lò hương. CHÚ: Với thầy già ở núi, ngày nào cũng tốt, cũng sống an thường; cơm hẩm no lòng, nước suối tắm mát, sống đời giản dị. Mọi vật dụng là kho thiên nhiên trước mắt. Tóm lại, quan niệm của người tu, sống thì tạm gởi với thiên nhiên, thác lấy trăng sao làm quan quách. Không bận lòng vì sự sống, không chạy theo cái giả bên ngoài. Chỉ một bề: “Sáng tâm và an tâm” Có chỉ cho nhau cũng không ngoài việc này. Vừa nói gì?
Bài 13 Âm: Sơn cư khô đạm quả nhiên cùng, Hân đảo thiền sàng lại hạ công, Thánh giải phàm tình câu bất lập, Nhứt luân minh nguyệt chiếu hư không. Nghĩa: Ở núi khô lạt rõ ràng nghèo, Xiêu ngã giường thiền biếng sửa theo, Ý thánh tình phàm đều ném hết, Một vầng trăng sáng giữa trời treo. CHÚ: Trí huệ như vầng trăng chiếu ngự giữa trời. Buông tất cả sống đời đạm bạc tiêu dao, không còn việc gì để quan tâm, chỉ chăm hẩm một việc như mèo rình chuột, khi đớp được chuột mới thôi. Lại lấy “Trí huệ là sự nghiệp” là câu châm ngôn của người tu. Bao lâu trí huệ hiện tiền, chừng đó mới an nhiên giải thoát. - Giải thoát cái gì? - Rạng đông mặt trời lên, mọi tăm tối đều dứt bặt. Thế thôi!
Bài 14 Âm: Sơn cư môn yểm trúc lâm u, Vân tự phi hề thủy tự lưu, Thủ kỷ an bần tùy phận ngộ, Hữu nhân vấn ngã chỉ đê đầu. Nghĩa: Ở núi thay cửa ngàn trúc sâu, Mây tự bay chừ nước tự xuôi, Giữ nết yên nghèo tùy phận gặp, Chợt ai hỏi đến chỉ nghiêng đầu. CHÚ: Ngàn trúc thay cửa, mây bay nước chảy tự muôn đời. Giữ nết yên nghèo, tùy phần an ổn. Vả như gặp người hỏi đến chỉ nghiêng đầu tạ lễ mà thôi. Ấy thế, yên phận là một đức hạnh đáng quý và đấy cũng là một pháp tu, là cái then chốt của hạnh tri túc. Bao lâu còn chưa yên phận thì hạnh tri túc còn chưa thực hiện được, chỉ khi nào yên phận, chăm lo việc mình an ổn giữ đạo, mới thực hiện hoàn toàn pháp tri túc của Phật dạy.
Bài 15 Âm: Sơn cư xuất nhập phóng đầu đê, Bất lý nhân gian thị dữ phi, Thâu thập thân tâm quy cố lý, Miễn giáo đới thủy hựu thi nê. Nghĩa: Ở núi lui tới khỏi chìu lòn, Phải trái thói đời chẳng chen bon, Lượm lặt thân tâm về chốn cũ, Khỏi vương nước đục với bùn non. CHÚ: Phải với trái ta miễn bàn, bổn phận của ta là lúc nào cũng chăm lo thúc liễm thân tâm, gắng gổ hành trì đúng với lời Phật dạy. Dọn dẹp chông gai. Một bề thẳng lối về quê cũ. Gói ngém tư lương, dứt khoát tiến hành vào Phật địa. Được thế chúng ta mới hòng tránh khỏi cảnh bùn vương nước đọng. Vầng hồng vươn lên, vũ trụ thênh thang, dũng sĩ hiên ngang tiến bước. Quày gót về Tổ vực đạo tràng Vui khỏi bị Diêm đình tra tấn.
Bài 16 Âm: Sơn cư bốc trúc ẩn nham a, Miễn đắc tùy lưu trục thế ba, Tri túc an bần thường khoái lạc, Mộc nhân tề xướng thái bình ca. Nghĩa: Ở núi hang đá gởi tuổi già, Danh lợi thói đời thân tránh xa, Biết đủ yên nghèo thường khoái lạc, Người cây múa hát thái bình ca. CHÚ: Thân gởi hang đá, chẳng quản lợi danh, nghèo mà biết đủ, thường được yên vui. Khi này người gỗ ca khúc thái bình. Trúc ốm tùng dài nhỏ giọt hương, Gió trôi trăng mỏng đổ diêm lương, Nguyên Tây chùa ấy chừ ai ở, Hôm sớm chày kình đuổi tịch dương. Một tiếng quát!
Bài 17 Âm: Sơn cư cảnh trí lạc thiên thành, Kham thán diêm phù thế bất bình, Nghịch thuận thị phi đa lợi hại, Mạc như giam khẩu quá bình sinh. Nghĩa: Ở núi an nhiên cảnh đẹp xinh, Ngao ngán diêm phù cõi bất bình, Phải trái ôi thôi đầy lợi hại, Tốt hơn ngậm miệng hết bình sinh. CHÚ: Núi non cảnh trí đẹp thiên nhiên, nơi đây dù giả tạm, nhưng không phải trái lụy phiền. Giữa cuộc đời đầy ngất thị phi oán hại, ta phấn đấu khắc phục mọi oan khiên. Từng bước chân thoảng nhẹ, ta sấn bước khôi phục lấy chủ quyền. Vững dạ kiên gan, tùy duyên giữ Đạo, ngậm miệng thối, giả làm ngơ, mới có chút phần tương ưng. Bước đầu là thế. Gắng lên! Ô kìa! Xót trông phù thế mà đau Bọt trong bể khổ bèo đầu bến bến mê. Cái gì?
Bài 18 Âm: Sơn cư dưỡng chuyết độ dư niên, Vinh nhục phân minh tại mục tiền, Thật nãi thế tình triêu mộ cải, Tất nhiên thương hải biến tang điền. Nghĩa: Ở núi giấu vụng sống năm tàn, Vinh nhục kìa ta thấy rõ ràng, Vốn thật tình đời chiều sáng đổi, Tất nhiên sự thế biến thương tang. CHÚ: Thương hải tang điền, đổi thay trước mắt, lạ gì? Chừ ta dấu dẹp mọi khôn hay, bày ra những vụng dỡ quê mùa để sống cho hết năm tàn mà tiến tu đạo nghiệp. Vinh với nhục mà chi. Vinh đỗ nhục đó, trò đời dâu bể có ra gì! Đã thế dấn thân vào chốn bụi hồng, đâu không là dại dột. Tuy nhiên, Trong lòng ví không xiêu không lệch, Mặc tình nghe kẻ mắng người khi, Châm lửa đốt trời thêm nhọc sức, Đáy mắt đà buông rủ bóng từ bi.
Bài 19 Âm: Sơn cư súc thủ đắc tiện nghi, Tịch diệt thân tâm na cá tri, Bất thị thâu an duy tỵ họa, Danh cương lợi tỏa tận phao ly. Nghĩa: Ở núi rút cổ có tiện nghi, Lòng mình lặng dứt ai biết gì, Chẳng phải trộm yên mà lánh họa, Dàm danh khoá lợi ấy mà chi. CHÚ: Ở núi có tiện nghi cho người dụng công tu hành là, thân tâm an tỉnh, tự tại, lắng dịu mọi triền phược trong lòng. Dù vậy, đó chưa phải là chỗ tiện nghi đắc lực cho người chân thiết dụng công. Có thể nói rằng bước đầu dụng công ta tạm mượn cảnh ấy để tránh bớt lụy phiền, bảo trì chí đạo. Nhưng rồi phải xông thẳng trong sào huyệt mà bắt giặc cướp mới được. Cũng chớ lầm nuôi giặc cướp công đức trong nhà! Dè dặt lấy!
Bài 20 Âm: Sơn cư vô vật tác sanh nhai, Đạm phạn huỳnh tê trục nhật ai, Phú quí công danh phi ngã sự, Đắc khoan hoài xứ thả khoan hoài. Nghĩa: Ở núi không gì để sanh nhai, Dưa muối cơm thô tạm qua ngày, Phú quí công danh ta chẳng bận, Được hồi thong thả mở lòng ngay. CHÚ: Ngày qua ngày, cơm thô nước suối với sãi núi này, thấy đã thỏa lòng, cần chi giàu sang quyền thế, những thứ đó sơn tăng chẳng dùng. Sãi núi này chỉ làm một việc là, tự mở mắt huệ, giải phóng chính mình. Bao nhiêu tinh lực, dồn hết vào công phu, thực hiện cho kỳ được việc này. Việc này hoàn tất mới yên lòng sãi ta. Vừa lãi nhãi gì? Thẳng bước tiến lên quả vô sanh, Yêu ma quỉ mị khôn ngăn nổi, Chiếc gươm trí huệ tay chẳng rời, Đơn đao đột nhập vô thượng giác…
Bài 21 Âm: Sơn cư nhất vị thái căn hương, Vật ngoại nhàn nhân tuế nguyệt trường, Trục nhật ai lai khiên bổ quá, Minh triêu hà tất dự tư lương. Nghĩa: Ở núi rau củ sống qua ngày, Làm kẻ nhàn tăng vui thú hoài, Bữa bữa xét suy chừa lỗi cũ, Cần gì lo lắng việc ngày mai. CHÚ: Làm tăng vô sự, sống gởi núi rừng, thân tạm rau khoai, tháng ngày tự tại, chẳng cần lo lắng việc gì cũng không có việc gì lo lắng. Chỉ hằng tỉnh xét lầm lỗi nơi mình, nếu có liền buông, phải buông thật hết. Một chữ buông này ngời ngời trước mắt, không chút lãng xao. Mảy may máy động, phải hạ thủ mau. Chúng ma tác hại, không khéo len vào… Gì nữa? Nói xàm mãi sao? Vui ta vui chừ Bố Đại vui sướng Điên ta điên chừ Phổ Hóa điên gàn.
Bài 22 Âm: Sơn cư xúc xứ thể an nhiên, Diệc khả phương hề diệc khả viên, Chỉ hữu lưỡng ban trừ bất đắc, Cơ lai khiết phạn khốn lai miên. Nghĩa: Ở núi nơi đâu cũng an nhiên, Dù việc vuông tròn chẳng lụy phiền, Chỉ có hai điều trừ chẳng được, Mệt thì nằm ngủ, đói ăn liền. CHÚ: Nhàn tăng lúc nào cũng an nhiên. Hiện tượng trước mắt vuông tròn chinh nghiêng… đều theo luật thành trụ hoại không mà thế. Đã thế ta nên tùy duyên tùy phần mà nuôi dưỡng trí huệ của mình, đừng để dính mắc trong cuộc thành hoại, đừng chạy đua với những bóng giả bên ngoài, cũng đừng so đo tính toán việc gì khác… Chỉ một bề nhắm thẳng tới trước mà đi. Đi đâu? Đi cũng không đi. Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang Chống gậy chơi rong chừ phương ngoại phương.
Bài 23 Âm: Sơn cư vô sự khả bình luân, Nhựt vị tà thời tiện yểm môn, Phú quí thâu tha thiên vạn bội, Thanh nhàn hoàn ngã nhị tam phân. Nghĩa: Ở núi không việc để bàn mưu, Bóng ngã đầu non cửa đóng rồi, Phú quí thua người ngàn vạn bội, Thanh nhàn ta có mấy phần thôi. CHÚ: Là một hành nhân trong Tông môn, tuy còn sinh hoạt trong cộng đồng xã hội, nhưng trí huệ siêu việt hơn đời. Mọi chủ lực đều tập trung vào một việc là, cốt nuôi sống huệ mạng, lấy trí huệ làm sự nghiệp. Bao nhiêu buộc ràng toan tính vất xa ngoài vạn dặm, cố tạo một cuộc sống an ổn lành mạnh, đồng thời gan dạ chịu đựng mọi trở lực một cách anh dũng và sáng suốt. Ta tin chắc dù hành trình vạn lý, nhưng mỗi bước đi là mỗi bước về gần hơn. Người xưa nói: “Đạt giả thường du Niết Bàn lộ”.
Bài 24 Âm: Sơn cư mao ốc lưỡng tam gian, Lạc đạo vong tình bất yểm quan, Thước tháo nha minh đàm Bát Nhã, Thanh phong minh nguyệt bạn tăng nhàn. Nghĩa: Ở núi tranh lá một vài gian, Vui đạo quên tình cửa mở toang, Lũ quạ kêu ran đàm Bát Nhã, Trăng trong gió mát bạn tăng nhàn. CHÚ: Tranh lá sơ sài, dựng lấy thảo am. Hài hòa vui đạo, thế sự chẳng ham. Vui chốn núi rừng, bạn cùng trăm thú “Lấy gió mát trăng trong kết nghĩa, mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên… Tuy nhiên đạo lớn không khó, chỉ đừng lựa chọn cách xa trời đất”. Thế nên biết Tánh thật vô minh tức Phật tánh Thân huyễn như không tức pháp thân. Tỉnh táo, chớ lầm nhận!
Bài 25 Âm: Sơn cư nhất Phật nhất lô hương, Tĩnh lý càn khôn nhật nguyệt trường, Khát ẩm cơ san vô biệt sự, Hàn lai hướng hỏa noản thừa lương. Nghĩa: Ở núi một Phật một lò hương, Định thể càn khôn nhật nguyệt trường, Khát uống đói ăn không việc khác, Lạnh thì sưởi ấm nóng thừa lương. CHÚ: Định thể cao dày như trời đất, lớn lao vững chắc như nhật nguyệt. Trong định đó vắng bóng mọi suy tư lo lắng, toàn một thể phẳng lặng, trong ngần, siêu thoát. Khi này lạnh thì có ánh mặt trời chiếu soi sưởi ấm, nóng thì có gió mát trong lành tận mười phương. Tóm lại hằng ngày không việc gì khác ngoài việc đốt năm thứ hương thơm cúng dường Phật vô vị chân nhân của tự mình và đấy cũng là một cách nói chứ. - Làm sao cúng dường? - Tỉnh tỉnh, lặng lặng tạm vậy thôi. Lại từ trước có rất nhiều bài dâng hương được lưu truyền trong Thiền môn. Nhân đây xin trích dẫn một vài bài thường dùng nhất để xem người xưa nói gì qua nén hương, tiêu biểu gì đối với tâm hương của mình: Một nén hương này, chẳng từ trời cao rơi xuống, chẳng phải dưới đất sinh ra. Trước thời hai khí âm dương nguyên phối thì, cội nguồn che lấp cả ba cõi. Sau khi một vầng thái cực vừa phân thì, cành lá sum xuê khắp mười phương. Siêu hơn màu sáng đẹp của mặt trời, mặt trăng. Vượt cả vẻ rực rỡ của núi sông gấm vóc. Là giới, là định, là huệ, chẳng phải gỗ, chẳng phải lửa, chẳng phải khói. Thu lại chỉ trong hạt bụi, tung ra xông ướp cõi nước như hà sa… Lò hương vừa nhen nhúm khẩn thiết dâng lên cúng dường. Thử nói xem cúng dường đó là gì? Một tiếng quát. Vừa phải thôi! Hương giới, hương định, hương huệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến. Năm thứ hương này tạo thành đài mây, chói sáng pháp giới. Giờ đây trong từng giây, từng phút, các hành giả trong Tông môn thành khẩn vận dụng năm thứ hương này dâng lên cúng dường trước ngôi Tam Bảo khắp mười phương. - Có chăng? Có chăng? - Cũng không việc gì bên ngoài mà có! - Hương giới là gì? - Tỉnh tỉnh! Chớ lầm vọng tưởng. - Hương định là gì? - Lặng lặng đừng theo vọng tưởng. - Hương huệ là gì? - Thể dụng gồm đủ, tâm cảnh đều như. - Hương giải thoát là gì? - Không vật có thể dính, không pháp có thể mắc, vượt ngoài xưa nay, tâm hằng sáng suốt. - Hương giải thoát tri kiến là gì? - Xưa nay không tịch, bản lai không vật là gì? Thử hạ một chuyển ngữ xem. “Đêm rồi sân trước một cành mai”
BÀI 26 Âm: Sơn cư sái lạc nhiệm ngâm nga, Phạn hậu trà lai khiển thụy ma, Thế thượng hoàng kim hà túc quí, Nhất thân an lạc trị tiền đa. Nghĩa: Ở núi thư thả mặc ngâm nga, Ma ngủ dẹp tan cậy chén trà, Vàng nén trên đời đâu đã quí, Một thân an lạc khó mua đa. CHÚ: Thân tâm nhàn hạ, sống đời thư thả mặc tình ngâm nga. Hai chướng hôn tán giải trừ rồi thì một đời tự tại lặng lẽ sáng suốt. Tình huống này cần đi thì đi, cần nghĩ thì nghĩ, ưng làm cứ làm không còn vướng mắc, bận bịu bất cứ gì. Thế nên nói: “Vàng nén trên đời cũng không sánh bằng”, cũng không đổi được niềm siêu lạc của người đã giải trừ hôn tán. Từ đây tiến lên một màu tịnh thanh, ngày ngày trưởng dưỡng gọi là tu hành. Tuy nhiên cũng chẳng có gì cố định cả!
Bài 27 Âm: Sơn cư độn tích vạn duyên hưu, Thất lạc tiên thằng lại khán ngưu, Tán đản vô câu do ngã lạc, Chư nhân hà bất tảo hồi đầu. Nghĩa: Ở núi dấu tích chẳng mong cầu, Dây roi rớt mất biếng đuổi trâu, Ném quách thảnh thơi ta vui thú, Các ngươi sao chẳng sớm hồi đầu? CHÚ: Muôn duyên bặt, trăm việc thôi, trâu trắng sờ sờ trước mắt, khi này mới thật thảnh thơi. Ở đây trở lại vấn đề, ta thử hỏi xem, làm sao chăn trâu? Một hôm Thạch Củng làm việc trong nhà bếp, Mã Tổ hỏi: - Làm gì đây? - Chăn trâu. - Chăn cách nào? - Một khi vào lúa mạ của người liền nắm mũi kéo lại. - Thật biết chăn trâu. Thử xem phương pháp của người xưa đấy.
BÀI 28 Âm: Sơn cư lão nạp niệm thành khôi, Ỷ trượng nhàn quan tùng trúc mai, Phật Tổ thượng nhiên do lại tố, Khách lai chỉ đắc cương tương bồi. Nghĩa: Ở núi sãi già ý lặng nguôi, Chống gậy nhàn xem tùng trúc vui, Phật Tổ hãy còn chưa muốn gặp, Không lẽ khách tìm lại bỏ lui. CHÚ: Sãi già con khỉ lòng đã lặng nguôi. Ngày ngày nương trụ trượng nhàn xem tùng trúc vui. Phật Tổ còn chẳng muốn làm, huống nữa là việc gì khác ư! Tuy nhiên vì khách mà gắng gượng gặp nhau. Gặp nhau đã không tiện rồi. Đã chôn vùi nhau rồi, nói gì giương mi trợn mắt. Dù vậy chỗ vì nhau cũng tạm dùng đàm dãi người xưa khích lệ người sau, kẻ đồng chí nương đó đứng dậy vung tay tiến thẳng tới trước. Gắng lên! Chân trời tịnh thanh…
BÀI 29 Âm: Sơn cư xử sự xuất bình thường, Mạc sử thân tâm phận ngoại mang, Tích nhật Triệu Châu thù ứng lại, Vương lai do bất hạ thiền sàng. Nghĩa: Ở núi xử sự vượt tầm thường, Chớ để thân tâm lắm chuyện vương, Ngày trước Triệu Châu khi tiếp khách, Vua sang còn chẳng bước khỏi giường. CHÚ: Sãi già ở núi xử sự vượt bình thường, không để trong tâm có việc, tự nhiên thân lặng tâm yên. Người xưa vì nhau bất đắc dĩ thù tiếp các nơi, nhưng luôn luôn tự tại, không chút riêng tư nào vương vấn trong lòng. Đấy mới thật sự là cảnh “Đất nước tôi thanh bình, can qua không còn nữa”. Đã thế thì, mặc tình nói dọc nói ngang, cũng không ngoài bổn phận sự. Mầm loạn khi chấm dứt, tự nhiên nhà nhà bỏ ngỏ, hân hoan hội hè. Chớ lầm!
BÀI 30 Âm: Sơn cư thâm ẩn bế thiền quan, Hỷ đắc phù sanh nhựt nhựt nhàn, Tọa thính tùng phong đàm diệu pháp, Đại vương gia thiện thục năng san. Nghĩa: Ở núi thâm ẩn đóng thiền quan, Vui kiếp phù sinh bữa bữa nhàn, Pháp diệu ngồi nghe tùng dậy gió, Cơm vua thịnh soạn mặc tình xơi. CHÚ: Thâm ẩn non cao, trọn ngày cửa đóng. Nhàn nhã cùng gió cùng tùng, gá gởi kiếp phù sinh vui thú với mây với điểu. Gã này luôn được cơm vua thịnh soạn toàn bày trước mắt. Mới hay trong cái giả, có cái chơn, trong cái hư ngụy vô chủ, sinh diệt biến dị, toàn bày ông chủ chân thật bất sinh bất diệt. Khéo tự giữ gìn. Chớ để tháng ngày qua suông vô ích. Ôi chao!
BÀI 31 Âm: Sơn cư quy ẩn lạc tiên thiên, Mặc khế chân như giáo ngoại truyền, Đại đạo bổn lai vô sở nhiễm, Mạc manh vọng niệm ố tâm điền.
Nghĩa: Ở núi quy ẩn giữ tiên thiên, Thầm tỏ chân như giáo ngoại truyền, Đạo lớn xưa nay không chỗ nhiễm, Chớ cho vọng tưởng nhớp tâm điền. CHÚ: Làm tăng ở núi luôn giữ tâm thể an nhiên. Đạo thể trùm khắp không mảy may tỳ vết. Xưa nay hiện bày chẳng chút gì khuất lấp. Muốn thể nhập Đạo lớn này, chỉ vọng dấy liền buông. Được thế tự nhiên đất trời rỗng rang sáng suốt. Tuy nhiên như thế chớ lầm chạy theo vọng tưởng, làm hoen ố tâm điền của mình. Tổ sư dạy: “Sai chừng mảy lông, lỗi có muôn ngàn” Tỉnh tỉnh, chớ bị người gạt.
BÀI 32 Âm: Sơn cư mặc tọa thị chân tu, Học đạo vô như hiết niệm đầu, Y lý minh châu nguyên bất thất, Hà tu tân khổ ngoại biên cầu. Nghĩa: Ở núi tỉnh lặng thật chân tu, Học đạo gì hơn dứt niệm đầu, Chéo áo minh châu còn sẵn đó, Lựa là cay đắng khắp nơi cầu. CHÚ: Chân thể thì trong lặng viên dung. Người muốn đến điền địa này trước nhất phải buông vọng hoặc, vọng dấy liền buông, phải buông thật sạch mới tỉnh lặng như như được. Đã thế tức nhiên hạt châu quý đẹp giá trị vô lượng trong chéo áo vẫn còn. Vậy thì đâu cần cay đắng khắp nơi chạy tìm. Thôi, chớ nhận bóng quên đầu mà mất công vô ích. Có điều này là ở đây nói hạt châu hay bản thể, chân thể… đều chỉ là một cách nói. Xin nhớ lấy!
BÀI 33 Âm: Sơn cư hối tích dưỡng chân tâm, Đa thiểu cuồng mê trục ngoại tầm, Thủy tín cổ nhân ngôn bất tháo, Vô huyền cầm thượng thục tri âm. Nghĩa: Ở núi mai danh dưỡng chân tâm, Nhiều kẻ lầm mê rong ruỗi tầm, Mới biết người xưa lời chẳng dối, Không dây đờn nọ đấy tri âm. CHÚ: Kẻ ở núi là mai danh tu dưỡng, dừng bước chạy rong. Bởi lẽ càng chạy ra ngoài càng xa, càng tìm lăng xăng, càng rỗng. Người xưa bảo: “Hãy tỉnh táo ngay đấy mà thừa đương”. Lời này thật không dối. Do vì lầm mê nên chúng ta chưa chịu tin đấy thôi. Thế nên ở đây nói: “Đờn không dây ai là tri âm”. Sự thực kẻ tri âm này phải sống được với cái hằng nghe, xoay cái nghe vào tự tánh, buông bỏ thinh trần, trở vào viên trạm thường tánh. Đã thế ai là tri âm đây? Thật khó thông tin tức này lắm! Người xưa nói: “Ba mươi năm chỉ câu được nửa người Thánh”.
BÀI 34 Âm: Sơn cư hồi thủ tự trầm ngâm, Trượng thiết yên năng phó thốn câm, Hải hữu khô thời chung kiến để, Thế nhân chí tử bất tri tâm. Nghĩa: Ở núi hồi thủ tự trầm ngâm, Trượng sắt đâu hay đổi tấc vàng, Biển có hồi khô rồi thấy đáy, Người mê suốt kiếp chẳng biết tâm. CHÚ: Tâm thể lặng như mà cứ nhằm tán động mà tìm thì, cùng kiếp cũng chẳng biết nhận ra. Việc này như sắt vụn, dù có bao nhiêu trượng cũng không đổi được một tấc vàng ròng. Cho nên ở đây cam kết rằng: Dù cho non có mòn, biển có cạn chăng nữa, cứ chạy bên ngoài mà tìm thì suốt kiếp và mãi mãi trong nhiều kiếp dài và nhiều hơn nữa, cũng không thể nào nhận ra tâm hay biết tâm là gì. Chỉ khi nào hồi đầu thôi chạy, ngay đấy mà nhận lại chính nơi mình. Khéo khéo nhận lấy. Chớ lầm vọng tưởng!
BÀI 35 Âm: Sơn cư ngột tọa kháp như si, Tâm địa phân minh liễu liễu tri, Phong tác tùng đào lai quát nhĩ, Mão nhiên bất cố thả ca thi. Nghĩa: Ở núi ngồi vững tợ như si, Tâm địa tinh thuần rõ rõ tri, Gió dậy sóng tùng tai rộn rã, Mặc cho bốn phía cứ ngâm thi. CHÚ: Người đại lực lượng, bên ngoài trông giống như si ngây mà chẳng phải si ngây. Đó chính là con người bất động, bất tử, không còn chạy theo những vọng giả bên ngoài nữa. Chính con người này triệt không tất cả, quán xuyến tất cả, cho dù trời nghiêng đất lỡ. Con người này vẫn an nhiên tự tại. Tóm lại mọi hiện cảnh, hiện tượng trên thế gian này và cả những biến động lớn lao của siêu giới cũng không làm gì được con người này, cũng không thể kéo lôi nổi con người này. Thế thì con người này là gì? Một tiếng quát!
BÀI 36 Âm: Sơn cư khiển hứng ngẫu thành thi, Nhơn nhược đam thi diệc thị si, Sanh tử mạng căn như vị đoạn, Mạc tồn tri kiến bả tâm khi. Nghĩa: Ở núi khiển hứng chợt thành thi, Nhưng nếu mê thi cũng lại si, Sống chết mạng căn như chửa dứt, Chớ đem thấy biết để lòng khi. CHÚ: Chấp kiến chính nó là một thứ chướng ngại lớn trên đường Đạo, cũng chính nó là sở tri ngu rất khó trừ. Người hạ thủ công phu tu hành, phải nên đề phòng kiến chấp này. Hơn nữa người dụng công tu hành trong lòng nếu còn mảy may tình niệm nào chưa buông thì, đó là đam mê, cũng là một thứ si. Phải mạnh dạn bước lên đầu sào trăm trượng, đẩy sinh mạng mình vào cùng lộ, chỗ tuyệt hậu để rồi đón nhận một sự sống vĩnh cửu. Then chốt của vấn đề sinh tử, ta chưa giải quyết ổn đáng, tức nhiên có ngày quỷ Dạ Xoa kéo cổ ta đến điện Diêm La bắt đền cơm đó.
BÀI 37 Âm: Sơn cư tuấn hiểm thiểu nhơn đăng, Trúc tháp già phu nhất cá tăng, Quý ngã tịch liêu vô bạn lữ, Tự tri phương thốn lãnh như băng. Nghĩa: Ở núi hiểm trở ít người lên, Giường trúc ngồi Thiền một vị tăng, Vắng vẻ thẹn mình không bạn lứa, Tự lòng mình biết lạnh dường băng. CHÚ: Núi non hiểm trở ít người vãng lai, lại chỗ chót đảnh, ngút ngàn mây khói, ai là người có thể làm bạn lứa? Đấy là chỗ một mình cảm nhận mà thôi. Người xưa nói: “Thường độc hành, thường độc bộ” chính là đây. Nếu đây là một con đường thì người muốn đi và đi được, con người này phải là bậc trượng phu đạt đạo, mới có thể dạo chơi trên đó (đường này) được. Người dạo chơi trên đường này, lên tận đỉnh cao rồi, mới có thể xem xét tận mười phương. Thấu rõ lẽ: “Một hạt bụi nuốt biển cả, biển cả cũng không ngoài ta”. Gớm thay!
BÀI 38 Âm: Sơn cư lãnh đạm Phật gia phong, Thật thị thân cùng Đạo bất cùng, Vô giá ma ni nhân hản thức, Khả lân đối diện bất tương phùng. Nghĩa: Ở núi lạnh nhạt Phật gia phong, Ấy thật thân hèn Đạo chẳng hèn, Của báu ma ni người ít biết, Thương thay giáp mặt chửa từng quen. CHÚ: Xưa nay Phật gia không chuộng bên ngoài và rất lạnh nhạt đối với tất cả. Người tu Phật rất chú trọng bên trong, phần nội tại. Chỉ cốt làm sao cho phần nội dung vững vàng, sáng suốt, chắc thật thôi. Tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Biết tâm và nhận được tâm là nhận được tất cả. Sống thật với tâm là, có thể trang trải hài hòa với tất cả, chưa từng thiếu thốn. Người xưa nói: “Thật là thân hèn mà Đạo chẳng hèn”. Hèn ấy, thân tuy mặc rách rưới nhưng với Đạo thì trong tâm sẵn có hạt châu vô giá.
BÀI 39 Âm: Sơn cư tịch mịch chánh tương nghi, Hảo bả lương tâm dưỡng phiến thì, Nguyệt chiếu hàng tùng minh ý Tổ, Cá trung năng hữu kỷ nhơn tri. Nghĩa: Ở núi yên lặng thích thú thay, Khéo giữ lương tâm dưỡng tháng ngày, Tùng lạnh trăng soi bày ý Tổ, Trong đây được có mấy người hay. CHÚ: Vắng lặng là nơi thích hợp với người tu. Đã được an nhàn sống trong cảnh ấy, chúng ta phải nắm vững cương lĩnh tu hành, quyết tử hạ thủ công phu đồng thời cũng phải điều dưỡng thân tâm một cách khéo léo. Chúng ta nhận rõ nổi khổ luân hồi sanh tử nhiều kiếp một cách sâu sắc. Chúng ta cũng đã khẩn thiết dụng công tu hành. Như vậy mỗi phút giây trong hằng ngày chúng ta sẽ không mất phần lợi ích. Và khi tỉnh lực mạnh, trí huệ không lầm ngoại cảnh thì tự nhiên như nói: “Trăng soi tùng lạnh đều sẵn bày ý Tổ”. Gắng lên!
BÀI 40 Âm: Sơn cư phong vật tự thiên nhiên, Đại đạo chiêu chiêu tại mục tiền, Bất thức Tổ tông thân mật chỉ, Đồ lao niệm Phật dữ tham thiền. Nghĩa: Ở núi phong vật vốn thiên nhiên, Đạo lớn rành rành trước mắt liền, Ý nhiệm Tổ tông không biết đến, Uổng công niệm Phật với tham thiền. CHÚ: Ngay nơi cảnh Đạo hiện bày, người có chút hơi hám phải ngay đó mà nhận. Chính đó mà đào xới tìm lấy, chạy lăng xăng bên ngoài vô ích. Tóm lại ý nhiệm Tổ sư cũng phải ngay đó trực nhận, chính đó thừa đương, không can hệ việc gì bên ngoài và cũng chẳng thiếu thốn vật gì, chỉ biết gìn giữ và khéo dùng là được. Người xưa bảo: Phải khéo thừa đương. Nhưng thừa đương cái gì? Thì đây! Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác. Trăng trong mây bạc hiện toàn chân. Một tiếng quát!
Mục Lục
|