Thiền Tông Việt Nam
Sơn Cư Bách Vịnh
Phần 2

BÀI 41

Âm:

Sơn cư bao nạp thái hư không,

Vạn tượng sum la tận tại trung,

Tả hữu phùng nguyên giai Phật sự,

Bất tiêu bổng hát bất thi công.

Nghĩa:

Ở núi gồm chứa cả hư không,

Muôn trượng đều bày trọn ở trong,

Khắp chốn hiện thành là việc Phật,

Chẳng cần gậy hét với ra công.

CHÚ:

Đã sống được với chân thể thanh tịnh của tự mình thì, muôn tượng toàn bày trước mắt chẳng thiếu vật nào. Và khi này mọi thi vị đều là việc Phật, an ổn, đói ăn, khát uống, khỏi phải lo toan gì gì nữa. Có thể nói là, nơi nơi tự tại, chốn chốn thong dong, gặp trường thì đùa…

- Hãy nói ta là gì?

- Nhất thiết trí trí thanh tịnh bản nhiên.

- Là gì?

- Kẻ này cởi cọp dẫn voi về làm điên đảo thiên hạ. 

 

BÀI 42

Âm:

Sơn cư mặc tọa ngộ chân không,

Nhứt pháp thông lai vạn pháp thông,

Phi đản ngã kim năng đạt liễu,

Hằng sa chư Phật thể giai đồng.

Nghĩa:

Ở núi ngồi lặng tỏ chân không,

Một pháp thông rồi muôn pháp thông,

Chẳng phải riêng ta tới chỗ ấy,

Hằng sa chư Phật thể đều đồng.

CHÚ:

Dụng công tu hành đến chỗ đả thông được một pháp thì, tất cả pháp đều thông, bởi muôn pháp với ta không khác thể tánh. Vậy thì ta ngộ được chỗ đó, trước ta hằng sa chư Phật, Bồ tát và mãi mãi những hành giả sau này cũng đều ngộ chỗ đó, tức là chân thể trong lặng nhiệm mầu. Song muốn đến được chỗ đó, ta phải có công phu dày dặn, tỉnh lặng thâm niên mới khế hợp. Đấy là chỗ tối kỵ nói suông, nắm bắt lăng xăng vô ích. Phải thầm nhận, bảo trì mới được.

Nói gì nghe lạ quá vậy. 

 

BÀI 43

Âm:

Sơn cư tùy phận tức tu hành,

Vô sự vô ưu quá thử sanh,

Bản hữu chân không phi ngộ đắc,

Thánh nhân diệc thị cưỡng an danh.

Nghĩa:

Ở núi tùy thuận ấy tu hành,

Có sợ lo chi mặc phù sinh,

Sẵn có chân không đâu phải ngộ,

Thánh nhân âu cũng gượng nên danh.

CHÚ:

An nhiên tùy thuận tu hành tức ta đã thăng hoa được kiếp mong manh. Dòng đời cứ trôi, tháng ngày qua nhanh cái gì đến sẽ đến, ta không làm sao cưỡng lại nổi. Đã vậy mọi người chúng ta nên tỉnh táo mà nhận định cho trọn vẹn cuộc lữ bấp bênh này, nó luôn luôn vận hành trong chiều nghịch, còn ta trôi nổi theo ý thức trùng phức mênh mang.

Ô hay! Là lạ. Một cuộc lữ hư danh, mà ta lại cố chấp. Do cố chấp nên rồi ta bị cuốn trôi theo dòng thác luân hồi. Ta thật quá đổi si ngốc, bỏ cái sáng suốt, ôm lấy cái si ngốc mà thôi.

 

BÀI 44

Âm:

Sơn cư thường vũ bất huyền cầm,

Nhứt khúc vô sanh duyệt ngã tâm,

Trực hạ phản văn văn tự tánh,

Thùy gia ốc lý một Quan Âm.

Nghĩa:

Ở núi thường khảy đờn không dây,

Một khúc vô sanh thỏa thích tâm,

Ngay đó xoay nghe nghe tự tánh,

Nhà ai không có Phật Quan Âm.

CHÚ:

Ngay đó xoay nghe, nghe lại tự tánh, không bị âm thanh khuấy động gián đoạn thì tức nhiên bản tánh hiện tiền. Đây là pháp môn đại giải thoát, là cửa đắc lực nhất của công phu nhĩ căn viên thông mà Bồ tát Quán Thế Âm hành trì viên mãn. Chính Ngài quán sát căn cơ chúng sanh cõi này, thấy căn khí của chúng thích hợp với môn phản văn để được viên thông, cũng chính Ngài khuyến khích đại chúng, xoay căn nghe, nghe tự tánh, nhập lưu vong sở, vào viên trạm, tự nhiên được thông suốt viên mãn các căn.

 

BÀI 45

Âm:

Sơn cư độc tọa Đại Hùng Phong,

Diện diện hiên song xứ xứ thông,

Vân khứ vân lai giá bất trụ,

Nhứt thừa cao hiển thái hư không.

Nghĩa:

Ở núi riêng cõi Đại Hùng Phong,

Bốn mặt thênh thang chốn chốn thông,

Mây tới mây lui che chẳng kín,

Nhất thừa cao tỏ thái hư không.

CHÚ:

Độc tọa trên chót đảnh bao la, đó là nơi không người tới lui, không vật dính mắc, là điểm cao tột độc đáo chỉ hạnh thuần chơn nhất thừa rắn chắc mới thông nổi tin tức này. Người dụng công khi đã đến giai đoạn hoàn toàn tự chủ rồi, mọi vụn vặt vứt sạch hết. Ưng đi thì đi, ưng ngồi thì ngồi một cách tự tại an ổn, kẻ này chỉ còn một phen nhào lộn, mới hay tiếng vỗ của một bàn tay, ngôn ngữ của người không lưỡi. Vừa nói gì?

Một tiếng quát! 

 

BÀI 46

Âm:

Sơn cư không tịch ngọa thiền tăng,

Trú dạ thường trì Bát Nhã kinh,

Thỉ thức chúng sanh nguyên thị Phật,

Tùng lai nhiệt thủy tức hàn băng.

Nghĩa:

Ở núi vắng lặng ngọa thiền tăng,

Hôm sớm thường gìn Bát Nhã đăng,

Mới biết chúng sanh nguyên gốc Phật,

Thế thì nước nóng ấy hàn băng.

CHÚ:

Hơi thở ra vào không dính mắc, tức là thường thọ trì kinh Bát Nhã. Tăng nhàn ở non cao chóp đỉnh không khách khứa, lúc nào cũng lặng lẽ tỉnh táo trì kinh này. Từ tư thế đó, mới biết chúng sanh xưa nay là Phật, nước nóng đâu khác hàn băng chỉ là một tánh thể thôi. Đã không khác thể thì khi bụi nhơ sạch rồi, đương nhiên về cùng một chân tánh trong trẻo, một màu tịnh thanh.

Đấy cũng là một lối nói qua.

Chớ quến bùn úng nước!

 

BÀI 47

Âm:

Sơn cư diêu yểu tự vô trần,

Bất giả tu trì kiến bổn chân,

Chân Phật hà tằng ly tả hữu,

Kim nhân tiện thị cựu thời nhơn.

Nghĩa:

Ở núi diệu vợi bụi không vương,

Chẳng đợi tu trì thấy bản chân, 

Phật thật đâu từng rời gang tấc,

Người nay chính thật cựu thời nhân.

CHÚ:

Tánh thiên chân hay bản thể tịnh thanh một màu trong trẻo, chẳng dụng lau chùi và lúc nào cũng sẵn sàng bên ta trong ta, chỉ tại ta quên lãng không chịu nhận. Khư khư chạy theo cái giả bên ngoài. Khi nhận ra rồi thì thời gian, không gian đối với ta đều là giả vọng, mọi hiện tượng ỡm ờ trước mắt ta cũng không thật, tất cả đều là duyên huyễn tạm hợp, tạm có, nhưng đương thể tức không. Phật dạy: “Các hạnh không thường, là pháp sanh diệt”. Nói gì?

- Thiên thượng nhân gian thảy trong gang tấc. 

 

BÀI 48

Âm:

Sơn cư như ý nhiệm Đông Tây,

Đại đạo hà tằng hữu ngộ mê,

Hảo nhục huyễn sang nan hạ thủ,

Bát vu thiêm bỉnh diệc thành phi.

Nghĩa:

Ở núi thỏa thích mặc Đông Tây,

Đạo lớn đâu từng có ngộ mê,

Thịt tốt khoét hư tay chẳng nở,

Bát tô thêm cán cũng ô dề.

CHÚ:

Đạo lớn xưa nay chẳng có ngộ mê. Sở dĩ nói có ngộ mê là bởi chúng ta lầm nhận thứ khác, chẳng phải Đạo mà cho là Đạo, chẳng phải thật mà cho là thật. Khác nào da thịt đang lành lặn mà chúng ta đang tâm khoét thành vết là cái bát cái tô tra thành cán. Giờ đây chúng ta phải khéo nhận lại cái thật sẵn có của chính mình. Có thế, con đường phiêu lưu vô định của chúng ta mới rút ngắn và chúng ta sớm về quê hương. 

 

BÀI 49

Âm:

Sơn cư cao ngọa thủ thanh hư,

Ẩm trác tùy duyên lạc hữu dư,

Bất dụng tương tâm trừ vọng niệm,

Yếu tri vọng niệm tức chân như.

Nghĩa:

Ở núi nằm khểnh giữ thanh hư,

Ăn uống tùy duyên vui có dư,

Chẳng phải đem tâm trừ vọng tưởng,

Mới hay vọng tưởng ấy chân như.

CHÚ:

Ở núi an nhàn mọi vật dụng cũng tùy duyên tiêu dùng, không bận lòng lo lắng chi cả. Như thế chúng ta vui cả ngày và ở đâu cũng an ổn lý thú. Lại vấn đề vọng niệm, nếu có dấy khởi chúng ta liền buông thì tự nhiên vọng lắng, niệm yên, chân như hiện tiền. Bấy giờ một chữ buông cũng bỏ luôn. Lúc đó mới thật sự an ổn sáng suốt. “Đất nước bình yên”. Người xưa nói:

“Tùy thuận các duyên không quái ngại

Niết Bàn sanh tử thảy không hoa…”

 

BÀI 50

Âm:

Sơn cư tuy thị tiểu mao am,

Đại đạo đương dương trực chỉ nam,

Mạc trụ Hóa Thành vong Bảo Sở,

Trùng gia tinh tấn cấp tu tham.

Nghĩa:

Ở núi tranh cỏ một tiểu am,

Đạo lớn nêu bày có chỉ nam,

Chớ kẹt Hóa Thành quên Bảo Sở,

Càng thêm siêng gắng gấp nên tham.

CHÚ:

Sơn cư dù chỉ một lều tranh bé bỏng nhưng đó là nơi dừng trú của bậc Đạo nhơn vô tâm, chính là nơi bậc long tượng trong Phật- pháp tuyên bày tiêu biểu pháp viên đốn là cương lĩnh làm Phật làm Tổ. Mọi người gắng lên, chớ kẹt ở Hóa Thành mà phải tiến đến Bảo Sở, lại càng nỗ lực tham cứu đắc lực hơn nữa, lấy ngộ làm kỳ hạn. Hóa Thành chỉ là phương tiện tạm ứng thôi, Bảo Sở mới là nơi thường trú an ổn thật sự.

Dũng mãnh lên!

 

BÀI 51

Âm:

Sơn cư cao ẩn bạch vân trung,

Đa thiểu manh mê bất kiến tung,

Hướng ngoại tầm chơn chơn chuyển viễn,

Khắc chu cầu kiếm uổng thi công.

Nghĩa:

Ở núi cao ẩn tận trong mây,

Nhiều kẻ mù mê chẳng biết tung,

Hướng ngoại tìm chơn chơn lánh mãi,

Ghi thuyền mò kiếm uổng ra công.

CHÚ:

Non nước là quê hương, là nơi cao ẩn của kẻ đã buông lại buông. Người đầy mộng mơ chưa thể tìm được gì ở nơi này, nếu gượng tìm cũng chẳng khác kẻ nhắm bên ngoài tìm chân như hoặc ghi thuyền mà mò kiếm báu, chỉ mất công không ích lợi gì cả. Thế thì người muốn tìm chơn, phải làm sao? Tìm ở đâu? Hãy thong thả đi, nhìn lại gót chân mà đi, vất mọi sở hữu, sở kiến, dần dần khôi phục phận vị nguyên xưa của mình. Được vậy là về gần đến nhà và nhận ra ông chủ nguyên xưa chân thật của mình.

 

BÀI 52

Âm:

Sơn cư bình địa hữu thâm khanh,

Chỉ quí đương nhơn cụ nhãn minh,

Phục hổ hàng long giai mạc sự,

Pháp thân bất động ngộ vô sanh.

Nghĩa:

Ở núi bình địa có thâm khanh,

Chỉ quí người đi mắt sáng lanh,

Trói cọp dẹp rồng là việc mọn,

Pháp thân chẳng động rõ vô sanh.

CHÚ:

Người tu cốt thể nhập vô sanh,  vô sanh là đối với sanh nhẫn, pháp nhẫn, đương nhân phải thực sự bước vào chỗ không còn dấy khởi nữa. Lại, pháp là đối với các hiện tượng quả báo trước mắt. Nhẫn là đương nhân phải có công lực đủ đạo nhãn nhận chịu tất cả hiện tượng quả báo đó. Có nghĩa là, người tu phải khắc phục và chiến thắng nội ngoại cảnh. Được vậy thì tự nhiên hiện tiền. Cái gì hiện tiền? 

- Chớ chạy rong. Tối kỵ kiếm tìm!

- Sanh pháp an bài trí huệ sanh.

 

BÀI 53

Âm:

Sơn cư độc xuất chúng cao phong,

Tứ bích vô y triệt cốt cùng,

Thuyết dữ thế gian hồn bất tín, 

Khu khu chỉ đắc tự tiêu dung.

Nghĩa:

Ở núi độc xuất đỉnh cao phong, Bốn phía cheo leo khó tựa trông, Nói với người đều chẳng chịu, Rồi thôi chỉ có một mình thông. CHÚ Dụng công tu thiền khác nào người ở non cao chót đỉnh, bốn phía chẳng liên hệ, chẳng tựa nương vào đâu. Là con đường triệt cốt độc đáo hơn bất cứ con đường nào. Do vậy mà nói cho người nghe ít ai chịu tin. Rốt rồi chỉ riêng mình mình biết, riêng mình mình thông mà thôi. Con đường này ai tin được tức toàn tin vào tín vị, ai chịu khó bước đi tức mỗi bước vào đất Như Lai, có thể nói con đường thẳng tắt nhất, nhanh chóng và gần gũi quê hương nhất.

Tuy nhiên gì là con đường?

Bốn phương tám hướng đi.

 

BÀI 54

Âm:

Sơn cư liên lạc đạo nhơn gia,

Nhứt chủng bình hoài độ tuế hoa,

Cơ khiết kim ngưu vô mễ phạn,

Khát lai tiện ẩm Triệu Châu trà.

Nghĩa:

Ở núi quạnh hiu cảnh Đạo gia,

Một tấm lòng vui ngày tháng qua,

Cơm pháp Kim Ngưu ăn đỡ đói,

Khát thôi lại uống Triệu Châu trà.

CHÚ:

Rừng núi quạnh hiu rất thích hợp với người mà mọi điều trăm mối dứt bặt, gìn một kiên tâm vững chắc, bình thản an ổn, tri túc qua tháng ngày, vọng dấy liền buông. Một chữ buông cũng bặt, lặng lẽ như như. Khi này, đói thì ăn cơm pháp Kim Ngưu, khát uống lấy trà Đạo Triệu Châu, sống đầy hương vị giải thoát nhưng trước mắt chẳng còn đối tượng, trong lòng chẳng phân chủ khách, đậm đà an ổn hoàn toàn, một niềm an nhiên tiêu dung, thử hỏi giải thoát cái gì? Gì trói buộc ta? Cũng chưa ổn.

 

BÀI 55

Âm:

Sơn cư tham học chí cô cao,

Vị đạo vong xu bất đạn lao,

Tọa đáo ngũ canh thiên dục hiểu,

Thanh tùng trích lộ thấp thiền bào.

Nghĩa:

Ở núi tham học chí riêng cao,

Vì đạo quên mình chẳng nại lao,

Ngồi đến canh năm trời rựng sáng,

Tùng xanh móc nhễu ướt thiền bào.

CHÚ:

Người học Đạo phải đầy đủ ý chí, luôn luôn nêu cao tinh thần cầu tiến, phấn đấu bất khuất, tập trung cao độ ý chí vào công tác duy nhất là: “Quên mình vì Đạo, thành tựu đại nguyện”. Nhắm thẳng tới trước, bất chấp mọi gian nguy, lấy giác ngộ làm kỳ hẹn, không kéo dài mạng sống cho cuộc đời mà dồn hết sinh mạng cho việc sáng Đạo, phát huy năng lực trong việc hành Đạo, tận dụng mọi phương tiện để hoàn thành sứ mạng đạt Đạo.

Thượng cầu Phật Đạo

Hạ hóa chúng sanh.

 

BÀI 56

Âm:

Sơn cư ký tích tạm y thê,

Sanh tử hà tằng hữu định kỳ,

Phân phó đương nhơn cao trước nhãn,

Cấp tu đả điểm xuất đầu thì.

Nghĩa:

Ở núi gởi dấu tạm nương về,

Sống thác nào ai biết được kỳ,

Xin nhắn người đời mau tỉnh giác,

Hành trang sắm sẵn kíp quay về.

CHÚ:

Ta bà cõi tạm, sống thác chẳng hẹn kỳ. Ai người biết được những bí ẩn trong cuộc giả tạm sống thác bấp bênh này. Thế ấy, kíp mở to đôi mắt đầy đủ đạo nhãn, sẵn sàng tư lương, quày gót tìm về quê cũ.

Quê cũ ở đâu?

“Chỉ một niệm không sanh toàn thể hiện”. Bấy giờ toàn bày trước mắt chẳng thiếu vật chi. Vậy thì nói quày gót hay quày đầu gì gì cũng chỉ là một lối nói thôi. Trọng điểm ở chỗ “Một niệm không sanh” tức nhiên hiện tiền.

 

BÀI 57

Âm:

Sơn cư kết thảo tại trùng nham,

Hỉ đắc phiên thân xuất náo lam,

Tri túc tiện vi an lạc quốc,

Mạc giáo quá phận thái vô tàm.

Nghĩa:

Ở núi kết cỏ ở gành non,

Mừng được rời thân khỏi lối mòn,

Biết đủ là vui niềm an lạc,

Thẹn thuồng quá phận khó chu toàn.

CHÚ:

Vui về ẩn thân chốn núi non là tránh được chỗ đông đảo ở xóm làng. Biết đủ là một vị thuốc an thần khỏe mát nhất đối với người tu. Bất cứ ai nếu dùng đến liều thuốc “biết đủ” này, tức nhiên trọn đời an ổn khoái lạc. Tóm lại hành giả trong Tông môn phải có tư cách độc lập, tự quyết và tinh thần tự trọng. Lấy bài học “mong cầu quá phần” làm đề tài tự kiểm hàng ngày để thực hiện hoàn chỉnh nếp sống tri túc thanh cao, giải thoát cho chính mình.

 

BÀI 58

Âm:

Sơn cư khổ hạnh nhứt đầu đà,

Phế tẩm vong san tự trác ma,

Liễu đắc duy tâm chân Tịnh Độ,

Phương tri Cực Lạc tại Ta Bà.

Nghĩa:

Ở núi hạnh khó nhất đầu đà,

Bỏ ngủ quên ăn giũa mài ta,

Thấu lẽ duy tâm chân Tịnh Độ,

Mới hay Cực Lạc tại Ta Bà.

CHÚ:

Hạnh đầu đà là mười hai hạnh khó khổ nhất của người tu sĩ. Sãi núi này dùng trang nghiêm bản thân, mài giũa cái ta, trau dồi ý chí. Duy tâm Tịnh Độ hay tỉnh giác hiện tiền là cao điểm sãi tôi phải thầm nhận thực sống. Bao lâu người tu chúng ta sống được duy tâm Tịnh Độ tức nhiên chúng ta cũng sẽ nhận ra Cực Lạc hiện tiền, khỏi phải chạy tìm hay cầu cạnh đâu khác. Hãy nối dài dòng niệm hiện tại liên tục bằng công phu tỉnh giác của mình.

 

Mục Lục