Thiền Tông Việt Nam
Phật Giáo Với Dân Tộc (1998)
Vài Nét Chính Luận Lý Phật Giáo - Phật Tử Tại Gia (I)

A. BẢN THÂN

Phật tử tại gia vừa lo sanh kế nuôi gia đình, vừa lo học hỏi chánh pháp để tu thân. Công việc của người tại gia thật là bề bộn phức tạp, nên việc tu thân rất là khó. Nhưng với tinh thần cầu tiến, người Phật tử tại gia đối với bản thân phải cố gắng thực hiện bốn điều sau này:

I.- CHÁNH KIẾN

Là Phật tử, điều kiện tiên quyết phải có chánh kiến. Chánh kiến là tay lái đưa con thuyền đời chúng ta đến bến Chân Thiện Mỹ. Chánh kiến là cửa ngõ duy nhất đi vào nhà đạo đức. Có chánh kiến là có tất cả điều lành, lẽ phải.

Thế nào là chánh kiến?

- Chánh kiến là phân định rành rẽ thiện ác, biện biệt tường tận thật giả, suy xét thấu đáo lý nhân quả.

Phân định rành rẽ thiện ác, trong phần tiêu chuẩn thiện ác đã nói. Biện biệt tường tận thật giả là điều cần phải bàn.

Trong xã hội hiện tại, người ta luôn luôn che giấu, bưng bít sự thật. Bản tánh sự thật lúc nào cũng bình thường và giản dị, nhưng óc tưởng tượng của con người không ưng như thế, họ thích tưởng tượng những chuyện phi thường, những hình dáng màu sắc rực rỡ, lộng lẫy. Vì thế, họ không dám nhìn thẳng sự thật, cũng không dám nghe sự thật. Tuy nhiên, ngoài miệng họ lúc nào cũng rêu rao yêu chuộng chân lý, tìm hiểu sự thật. Khi sự thật hay chân lý hiện đến, họ liền xây lưng chỗ khác, không chịu nhìn. Như người trong câu chuyện này:

Xưa có người ngu cưới cô vợ đẹp, rất yêu mến nhưng cô vợ vẫn không thương anh. Sau một thời gian ăn ở với nhau, cô vợ lại tư tình với kẻ khác.

Vì quá thương tình nhân, cô ấy muốn bỏ chồng, đi theo người yêu, ngầm bảo một bà lão: “Bà, sau khi tôi đi, bà kiếm một xác chết của một người đàn bà khác, để trên giường và bảo chồng tôi là tôi đã chết.” Bà lão ưng thuận. Khi chồng cô đi vắng, bà đem xác chết để trên giường. Người chồng về, bà bảo: “Vợ anh chết rồi.” Người chồng đến xem, tin là vợ mình đã chết, thương xót khóc lóc, buồn thảm, sắm sửa dầu củi hỏa táng, lượm xương đựng trong túi, ngày đêm đeo luôn bên mình.

Thời gian sau, tình thương phai lợt, cô vợ ấy lại quay về nhà cũ, bảo chồng: “Thưa anh, em là vợ anh trước đây.” Người chồng đáp: “Thưa bà, vợ tôi đã chết lâu rồi, bà là người lạ, bà nhận đùa là vợ tôi, chớ nào có phải.” Cô vợ giải thích đôi ba phen, ông chồng vẫn khăng khăng nhất định không tin.

Đó là thái độ người đời nói yêu chân lý mà không dám thừa nhận chân lý. Như anh chàng kia rất yêu vợ, cam chịu đeo túi xương khô bên mình, nhất định không nhận người vợ thật.

Có khi họ cũng biết sự thật như vậy, mà muốn nghe người ta nói khác đi. Như anh chàng tài nghệ tầm thường, tánh tình xoàng xĩnh, đi xem tướng. Ông thầy bảo: “Tướng anh tầm thường lắm, không có gì đặc sắc.” Ra về, anh chê: “Thầy tướng quá dở.” Đến ông thầy khác, ông thầy này nói: “Tướng ông hiện giờ tầm thường, song sau này sẽ phát đạt, xuất sắc.” Anh khen: “Ông thầy tướng  nói thật hay.”

Hoặc giả làm ác mắc tai họa, làm lành được phước đức, sự thật rõ ràng như vậy, mà người ta không tin. Họ hằng ngày cứ làm ác, ít hôm chạy tìm thầy bói, cô cốt nhờ coi mình có tai họa gì không để cầu cúng.

Có khi muốn hướng về đạo đức, họ đến với các nhà Sư để cầu xin dạy bảo. Vị Sư chân thành nói: “Tôi còn phàm tục, những tánh xấu chưa dứt hết, còn đang nỗ lực trong việc tu hành.” Họ liền từ giã vị Sư ấy, đi tìm vị Sư khác. Đến đây ông Sư này bảo: “Tôi đã chứng đạo quả, không còn tu tập nữa, thường có thần linh ủng hộ tôi, ai nói xấu tôi là bị trừng phạt liền...” Nghe rồi họ khâm phục xin thọ giáo qui y, cho là đã gặp bậc thầy chân tu đắc đạo. Hoặc cần học hỏi giáo lý, họ đến hỏi một vị Sư. Vị này đáp: “Muốn dứt khổ phải biết bớt tham sân si; muốn bớt tham, sân, si, phải tu bố thí, nhẫn nhục và học giáo lý.” Họ cho ông Sư này dạy tầm thường, tìm đến cầu học với vị Sư khác. Ông Sư này bảo: “Ông về ăn chay đi, đến hội Long Hoa tất cả đều chết hết, chỉ người nào ăn chay mới được Phật cứu độ. Tôi cấp năm vị Thần thường theo ủng hộ ông...” Họ cho ông Sư này dạy đạo rất cao.

Cho đến những việc giao tế hằng ngày, nếu người ý nghĩ thế nào, miệng nói như vậy, liền bị phê bình là quê mùa cục mịch, nếu người ý nghĩ sao không cần biết, miễn ngoài mặt vui vẻ, miệng ngọt ngào, được liệt vào hàng bặt thiệp. Bởi vì sự thật bao giờ cũng bình thường, giản dị mà người ta thích cầu kỳ bóng bẩy, cho nên lúc nào cũng trái nhau. Chỉ người nào gạt ngoài ý cầu kỳ bóng bẩy mới nhận được sự thật. Như người gỡ cặp kính màu, mới thấy rõ màu sắc thật của sự vật.

Đức Phật giác ngộ chân lý cũng rất bình thường, giản dị. Như xét con người là khổ, vì các nhân nhóm họp. Làm sao dứt khổ? - Diệt hết các nhân. Làm sao diệt hết các nhân? - Y phương pháp Bát chánh tu hành. Ngộ được như vậy, gọi là đạt được pháp Tứ đế. Hoặc xét: Vạn vật từ nhân duyên sanh, nhân duyên ly tán, vạn vật tiêu diệt. Ngộ được chỗ này, gọi giác ngộ lý nhân duyên sanh. Thật là giản dị. Chính vì chỗ giản dị đó không làm thỏa mãn được một số người có óc cầu kỳ. Như:

Họ hỏi: Vũ trụ nhân sanh từ đâu có?

Phật đáp: Do nhân duyên sanh.

- Thế nào là nhân duyên sanh?

- Cái này có cái kia có, cái này sanh cái kia sanh.

  (Thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh.)

- Người tham sắc phải tu pháp gì?

- Lấy quán bất tịnh trị.

- Người tham tài phải tu pháp gì?

- Lấy bố thí trị.

- Người hay nóng giận phải tu pháp gì?

- Lấy nhẫn nhục và từ bi trị.

Qua những lời đáp đây, chúng ta thấy có gì phi thường kỳ lạ? Chẳng qua đối bịnh cho thuốc, rất thực tế giản dị. Thế mà, người đời có ưng thuận cách dạy giản dị thực tế đó đâu. Phải nói thế này họ mới chịu:

- Vũ trụ nhân sanh từ đâu có?

- Do Thượng đế ngự tại cung Bạch Ngọc sai Sơn thần xuống thế gian biến ra núi, Thổ thần biến ra đất, Thủy thần biến ra nước, Bà Nữ hóa sanh ra con người...

Nghe như vậy họ sẽ thỏa mãn. Đến vấn đề tu tập cũng thế:

- Tham sắc lấy gì trị?

- Đây, tôi có lá bùa do công phu tu luyện nhiều năm, cho ông mang vào cổ, khi nào thấy sắc đẹp, ông tụng câu chú này, liền có năm vị thần hiện ra đuổi sắc đẹp đi xa.

Được nghe những lời thần bí như vậy, người ta dễ tin phục kính trọng. Nhưng những việc thần bí ấy có phải là sự thật hay không? Hẳn là không. Thế mà người ta thích như vậy, tin như vậy.

Giờ đây, chúng ta xét lời Phật dạy có đúng sự thật hay không. Vạn vật trong vũ trụ này, không vật nào tự sanh hay ngẫu nhiên có, đều do chung hợp các duyên mà thành. Tìm khắp mặt đất, không có một vật nào ngoài nguyên lý ấy. Nhưng nói sự thật đó, người ta lại hững hờ không tin. Đến muốn dứt tâm tham sắc, chỉ có cách làm sao khi đối sắc không thấy đẹp, lại sanh ghê gớm, đó là công dụng của quán bất tịnh. Muốn dứt tâm tham tài, chỉ có cách đem của mình ra cho người. Của mình sẵn có còn đem ra cho, thử hỏi tham lam của người làm gì? Phật dạy dứt hết nhân thì quả không còn. Đó là sự thật không cầu kỳ, huyền bí gì cả.

Phật giáo là nền giáo lý rất bình thường, giản dị. Như Phật hỏi các thầy Tỳ-kheo: “Mạng người sống bao lâu?” Có thầy Tỳ-kheo trả lời: “Sống trong hơi thở.” Phật khen: “ Ông đã hiểu đạo.” Hiểu đạo, nghĩa là thấy sự thật, nhận được sự thật. Bình thường, chúng ta nói mạng người sống trăm năm. Nhưng có ai chắc sống đến trăm năm không? Hoặc nói năm chục năm, ba chục năm, cho đến một ngày đi nữa, cũng chưa hẳn là đúng. Chỉ nói thở ra không hít vào là chết, đó là sự thật muôn đời. Có người hỏi vị Tổ sư: “Thế nào là đạo?” Ngài đáp: “Con quạ đen, con cò trắng.” Quạ đen, cò trắng là sự thật hiển nhiên, thấy được sự thật là thấy đạo.

Về mặt nguyên lý thì rất bình thường, giản dị. Hiểu được nguyên lý ấy, đem ra áp dụng sẽ có công dụng phi thường. Hiện tại chúng ta có những chiếc xe tăng khổng lồ, những chiếc tàu biển chở cả chục vạn tấn, đâu không phát xuất từ hơi nước sôi lạch tạch trong nồi? Những chiếc phản lực cơ bay động trời, đâu không phát xuất từ những cây pháo thăng thiên để vui chơi trong dịp Tết? Một trái bom nổ tan cả thành phố ở Nhật Bản, đâu không phát xuất từ những hạt nguyên tử? Cũng như vậy, thấy được sự thật của vũ trụ, tuy nó bình thường giản dị, song người ấy sẽ có khả năng tự tại phi thường.

Hiện tại người ta đề xướng những việc phi thường, huyền bí, lộng lẫy, rườm rà, nó chỉ là lớp sơn, cái vỏ cứng bao bọc che lấp sự thật. Chúng ta muốn thấy sự thật, yêu chuộng sự thật, đừng để cho sắc màu rực rỡ làm tối mắt, đừng bị âm thanh hoa mỹ làm lãng tai; phải nhìn thấu qua những ảo ảnh của sắc tướng, thanh âm. Có thế mới thấy được sự thật. Thấy được sự thật rồi, đời ta sẽ khỏi lạc lầm, cuộc sống mới được an ổn. Đó chính là nền tảng vững chắc của chúng ta trên con đường tu thân, học đạo.

Phân biệt được thật giả rồi, người Phật tử còn phải suy xét thấu đáo lý nhân quả.

Nhân quả  không phải là một chiều, như nói “nhân nào quả nấy”, mà có cả hai chiều thuận và nghịch. Nhân cần phải cộng với duyên mới sanh trưởng. Duyên có thuận duyên, nghịch duyên. Sự sanh trưởng còn tùy thuộc duyên nào, nó sẽ thành hay phải hoại. Như gieo hạt giống xuống đất là đã có chánh nhân, có đủ phân, nước, ánh sáng, nhổ cỏ v.v..., thuận duyên, chắc chắn hạt giống sẽ nứt mầm thành cây lúa và kết quả được nhiều bông lúa. Nếu có hạt giống, có phân, có nước... mà thiếu một vài điều kiện, như ánh sáng chẳng hạn, thì kết quả kém sút rất nhiều. Nếu có hạt giống mà thiếu hẳn các duyên kia, hạt giống cứ nằm đó rồi hoại. Hoặc hạt giống đã lên thành cây lúa, mà bị sâu rầy cắn, vẫn không có bông lúa. Đó là gặp nghịch duyên phá hoại. Còn rất nhiều trường hợp, không thể kể hết.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta biết gây nhân lành được quả lành, tạo nhân ác mắc quả ác, song không phải một chiều như vậy. Nếu chúng ta gây nhân lành mà không tạo đủ duyên cho nó sanh trưởng cũng có thể không kết quả lành. Như có người giàu thấy đứa cháu bà con nghèo, mồ côi cha mẹ, động lòng thương đem về nuôi. Song hằng ngày chỉ cho ăn ba bữa cơm, không để ý săn sóc đến nó, không cho học hành, chỉ nuôi để mà nuôi. Đến lớn khôn, thằng cháu không biết ơn, trở lại oán trách là khác. Đó là cái nhân lành mà không có quả lành, chỉ vì thiếu thuận duyên cho nó tăng trưởng. Nếu không hiểu lý này, người nhà giàu nọ sẽ kêu trời, tại sao tôi nuôi nó mà nó lại oán tôi! Ngược lại, nếu người nhà giàu ấy, nuôi đứa cháu ấy coi như nuôi con, hằng ngày săn sóc, lo cho học hành, đến lớn khôn, dù bội bạc thế nào, thằng cháu ấy cũng khó quên ơn. Đó là đủ nhân, đủ duyên thì kết quả chắc chắn.

Có nhân, mà gặp nghịch duyên, nhất định không kết quả. Như anh chàng kia đang đi dạo bên bờ sông, bỗng thấy xuồng chìm có người sắp chết đuối, động lòng hào hiệp, anh nhảy ào xuống sông, lội vớt người ấy lên. Khi cứu sống người ấy, nhìn ra là kẻ thù của anh. Anh hối hận nói: “Phải biết mầy, tao để chết đuối cho rồi.” Một câu nói ấy, phủ nhận tất cả công ơn đối với người được cứu. Thế là có nhân tình thương, mà gặp duyên sân phá hoại không kết quả lành. Còn không biết bao nhiêu sự kiện tương tợ như vậy, người không thấu đáo lý nhân quả, bảo rằng “không có nhân quả”.

Xét lý nhân quả, phải qua ba thời mới khỏi sai lầm. Bởi vì nói nhân quả là nói đến thời gian. Từ khi gieo nhân đến lúc gặt quả, thời gian ấy hoặc dài, hoặc ngắn, mau, chậm không nhất định. Nếu chặn một đoạn nào đó bắt buộc phải kết quả, thật là vô lý. Thí dụ:

Đồng thời ba người gieo nhân: người gieo lúa, người trồng chuối con, người ương hột xoài; đến cuối năm, người gieo lúa được gặt; sang năm sau người trồng chuối, chuối có buồng; người ương hột xoài phải đợi đến bốn, năm năm sau, xoài mới có trái. Tại sao đồng thời gieo giống mà kết quả sai biệt như vậy? - Tuy đồng thời gieo giống, nhưng tùy loại giống có kết quả mau, chậm khác nhau. Có khi cùng một loại giống mà kết quả cũng sai biệt. Như cũng ương hột xoài, anh A ương nhằm đất tốt, thường vun phân, tưới nước;  anh B ương chỗ đất xấu, lại ít săn sóc. Đến bốn năm sau, xoài anh A có trái, xoài anh B vẫn còn thấp lùn, không trái trăn gì cả. Tại sao đồng một loại giống, gieo cùng một thời, mà kết quả lại sai biệt? Tại vì đất sai biệt và săn sóc sai biệt.

Qua các thí dụ trên, chúng ta so sánh việc làm của người đời cũng thế. Đồng thời làm phước: người bố thí cho kẻ bần cùng, người săn sóc bệnh nhân, người xây cất chùa chiền. Ba bốn tháng sau, bệnh nhân được lành, đến tạ ơn người đã săn sóc. Sau vài năm, người nghèo cùng kia làm ăn phát đạt, tìm ân nhân để đền đáp. Chỉ có người cất chùa trông hoài không thấy dấu hiệu gì về kết quả.

Lại, hai người đồng thời làm việc phước thiện, sau đó một thời gian, có người làm ăn phát đạt, gặp toàn việc vui vẻ may mắn; còn người kia vẫn lụt thụt không thấy gì lạ. Nếu không hiểu rõ lý nhân quả, người ta sanh hồ nghi; tại sao người làm phước liền gặp phước, còn người làm phước lại không gặp? Lý nhân quả có bất công chăng? Sự thật lý nhân quả công bằng bình đẳng triệt để. Phải công bằng, khi gieo nhân, phải công bằng trong các duyên, kết quả không bao giờ sai biệt. Nếu nhân đồng mà duyên sai biệt, kết quả phải sai biệt. Bình đẳng ấy mới chân thật bình đẳng, công bằng ấy mới triệt để công bằng. Không phải lối công bằng giả tạo, bình đẳng bắt buộc, như một số người hiện tại chủ trương.

Biết rõ thời gian gieo nhân đến kết quả không cố định ngắn dài, sớm muộn, biết rõ có nhân đủ duyên kết quả bình đẳng như nhau, chúng ta cứ sẵn sàng vung tay gieo nhân tốt mãi mãi, tận lực tạo duyên cho nhân ấy đủ điều kiện sanh trưởng, kết quả tốt chắc chắn phải đến, đừng mong mỏi chờ đợi vô ích.

Tóm lại, nhân quả là chân lý phổ biến trên vũ trụ vạn vật trong vòng tương đối. Các nhà khoa học, triết học, luân lý học được phát triển đều nương lý nhân quả mà thành. Chúng ta nhận xét lý nhân quả thấu đáo, trong cuộc sống của chúng ta sẽ an ổn lạ thường. Hằng ngày chúng ta hăng hái làm thiện, dè dặt phòng ngừa những lỗi ác. Chúng ta an nhiên khi tai họa đến, bình thản lúc gặp dịp may. Nhân quả là một thứ linh dược làm an thần và tráng kiện con người chúng ta.

II.- PHÁT CHÍ HƯỚNG THƯỢNG

Có chánh kiến rồi, người Phật tử cần phải phát chí hướng thượng. Nghĩa là lập chí tiến lên mãi mãi về phần đức hạnh, không bao giờ chịu đứng lại hay lui sụt. Muốn được vậy, trước hết chúng ta phải phát tâm cung kính các nhà đức hạnh. Như trong kinh, Phật dạy các thầy Tỳ-kheo:

Nếu Tỳ-kheo thực hành cung kính, khéo quán sát, kính trọng những vị hạnh thanh tịnh là đã có đầy đủ oai nghi, đủ học pháp, đủ thân giới, đủ thân định, đủ thân tuệ, đủ thân giải thoát tri kiến, đủ Niết-bàn.

(Trung A-hàm, quyển 10, phẩm Tập Tương Ưng, bài kinh số 8)

Cung kính là đứng đầu trong các hạnh cho đến Niết-bàn. Có cung kính người đức hạnh chúng ta mới hâm mộ, học tập theo đức hạnh. Nếu xem thường đức hạnh, chúng ta không chịu gần gũi người đức hạnh, kết cục chúng ta không có đức hạnh. Bình thường chúng ta hâm mộ thích thú làm nghề gì, việc gì, thì sớm muộn gì chúng ta cũng có thể làm được việc đó. Như Đinh Bộ Lĩnh lúc nhỏ thích cầm binh đánh giặc, lớn lên đầu quân dẹp loạn mười hai sứ quân. Vì thế, về phương diện đạo đức, chúng ta muốn tiến lên, trước phải phát tâm cung kính khen ngợi những nhà đức hạnh. Sự cung kính khen ngợi đó đối với các vị được cung kính không có thêm bớt gì, song riêng phần chúng ta được ảnh hưởng rất lớn lao. Vì đã tạo cho ta một tâm niệm hướng thượng, đã đạt được mục tiêu nhằm tiến lên.

Có người nghi: Đức Phật đã xóa bỏ tất cả quyền thế, danh vị, cho đến thân thể cũng không quí tiếc, tại sao khi sắp Niết-bàn, Phật dặn đệ tử sau khi thiêu, lấy xá-lợi xây tháp thờ?

- Chính vì tâm lợi tha, đức Phật mới dặn như vậy. Xá-lợi chỉ là một mớ xương tàn của Phật, mà còn được quí trọng xây tháp cúng dường, huống là toàn thân Phật. Do đó, người đời phát tâm hâm mộ làm Phật, tìm hiểu những phương pháp Phật đã tu, bắt chước tu theo. Như vậy là gián tiếp giáo hóa người đời sau. Kinh Pháp Hoa nói: “Người đối trước hình tượng Phật, cho đến chắp tay cung kính, sau này cũng sẽ thành Phật.” Cung kính những hạng người nào, tức là đã gieo chủng tử ấy vào Tàng thức chúng ta rồi. Cung kính Phật tức là chúng ta đã gieo chủng tử Phật, tương lai chúng ta sẽ thành Phật. Cung kính tà ma quỉ quái, tức là chúng ta đã gieo chủng tử tà ma quỉ quái, tương lai có thể là tà ma quỉ quái.

Vì thế chúng ta phải phân biệt, chỗ nào đáng cung kính, chỗ nào không đáng cung kính. Chỗ không đáng cung kính mà cung kính tức là chúng ta đã gieo những chủng tử không tốt cho chúng ta sau này. Cho nên, người Phật tử khi qui y Tam Bảo đã phát nguyện: “Qui y Phật, không qui y thiên thần quỉ vật, qui y tôn hữu, ác đảng.”

Chữ qui y có nghĩa là cung kính nương về. Chúng ta đã cung kính Tam Bảo, lấy Tam Bảo làm mục tiêu, nhất định không nghĩ và không theo nơi nào khác. Trong Tam Bảo, về phần Tăng bảo, như kinh nói: “bốn đôi tám bậc Hiền Thánh”, nghĩa là hướng A-na-hàm, A-na-hàm; hướng Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hoàn; hướng Tư-đà-hàm, Tư-đà-hàm; cho đến hướng A-la-hán, A-la-hán. Tám bậc ấy là  Hiền Thánh tăng, chúng ta thành tâm quyết kính. Song hiện tại Tăng rất ít có trong tám bậc ấy, hầu hết là Phàm tăng, cho nên người Phật tử còn một phen giản biệt nữa. Trong Phàm tăng này, có người lợi dụng chiếc áo làm sanh kế, người Phật tử phải biết cung kính nơi nào đáng cung kính. Bởi vì, khởi tâm cung kính, chúng ta phải thân cận học hỏi, nếu vị ấy không chân chánh ắt sau này tâm sanh ra chán lờn, khinh báng, mất hết chủng tử tốt đẹp trước.

Tóm lại, cung kính bậc đức hạnh làm mục tiêu nhắm đến, khiến chúng ta chỉ tiến lên không sai lạc. Như người đi biển đã trông thấy ngọn hải đăng. Cung kính là một trợ duyên đắc lực nhất trên con đường đức hạnh, như nước giúp cho cây cỏ được xanh tươi, song phải cung kính những vị thật đức hạnh.

III.- TỰ TÍN

Cung kính các bậc đức hạnh là phát chí hướng thượng, nếu thiếu đức tự tín, chí ấy cũng không thành đạt. Chúng ta phát tâm cung kính Phật, tức là muốn làm Phật, nhưng không tin mình có khả năng thành Phật, ý muốn làm Phật kia dần dần tiêu ma. Cũng thế đối với những vị đức hạnh, chúng ta phát tâm cung kính, nhưng bảo rằng việc ấy chỉ các ngài làm được, chớ mình không phân. Nếu có tâm nghĩ như vậy, chúng ta không thể nào tiến bộ thành người đức hạnh được.

Chúng ta không nên khinh mình, phải tin tưởng cố gắng. Đức Phật quở ngài La-hầu-la: “Sao không noi gương các vị A-la-hán đức hạnh mà sửa nết?” Ngài La-hầu-la thưa: “Việc các vị ấy làm, con không thể làm nổi.” Phật bảo: “Kia là trượng phu, ta cũng trượng phu, chớ tự khinh mà lui sụt.” Tự tín là một cứ điểm hệ trọng, chúng ta bảo thủ để chiến thắng quân ma. Bồ-tát Thường Bất Khinh suốt đời chỉ làm một việc, đến đâu, gặp ai đều chắp tay thưa: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Đó là Ngài gieo cho chúng ta đức tự tín, mình có khả năng thành Phật. Bởi vì chúng ta thiếu đức tự tín nên thấy việc làm của chư Phật, Bồ-tát biết là hay, đáng kính, song cho rằng mình không thể làm nổi. Do đó, mà không tiến lên được, trái lại còn sụt lùi là khác. Việc làm của ngài Thường Bất Khinh mới thấy là tầm thường, song hết sức quan trọng đối với bọn người thiếu đức tự tín như chúng ta. Sự cảnh giác, đánh thức đó gây cho chúng ta một niềm tin mãnh liệt. Có niềm tin rồi, lo gì trên con đường đạo xa xôi, chúng ta không đi đến đích?

Lại có người đổ cho nghiệp lực, vì nghiệp lực lôi cuốn nên không thể làm được, tu được... Nghiệp lực vẫn có, nhưng không phải cố định chịu như vậy, không thay đổi. Vì nghiệp phát xuất từ tâm niệm, hành động chúng ta, một khi tâm niệm hành động thay đổi, thì nghiệp cũng tùy thuộc chuyển hướng. Như cây cỏ, nhà cửa đều nương nơi đất, một khi đất chuyển động, cây cỏ, nhà cửa cũng lung lay. Chúng ta phải như nhà đại lực sĩ, tuy bị trói hằng trăm nuột dây, một khi chuyển mình thì những nuột dây ấy từ từ đứt sạch. Đã là con người thời ai khỏi mang nghiệp đời quá khứ, song phải vận dụng sức mạnh cánh tay tự tín, cầm con dao trí tuệ, cắt đứt tất cả dây oan nghiệt, thoát mình ra ngoài vòng trời cao bể cả, ngao du tự tại.

Đức tự tín là yếu tố hệ trọng trong con người chúng ta. Thiếu nó, chúng ta sẽ xanh xao, yếu ớt không làm nổi việc gì. Tự tín là nhiên liệu đẩy chiếc phi cơ ý chí thẳng đến mục đích xa xôi.

IV.- TU THÂN

Người Phật tử phải lấy mười điều thiện làm căn bản tu thân. Mười điều này là cội gốc sanh tất cả công đức, là những nấc thang đầu lên quả vị Thánh Hiền. Không ai trở thành đức hạnh mà thiếu mười điều này.

1) Không giết hại người vật: Đương nhiên điều này lấy con người làm trọng tâm. Mạng sống con người là giá trị tối cao trong tất cả giá trị. Dù có tất cả của báu trên thế gian này, mà mạng sống phải diệt, người ta cũng không ưng có. Chúng ta biết quí mạng sống của chúng ta, người khác cũng quí trọng mạng sống của họ như vậy. Muốn mình sống mà tàn sát sanh mạng người, thật là điều vô lý bất công. Một dân tộc được gọi là văn minh phải quí trọng sanh mạng con người trên tất cả. Chỉ trừ bọn dã man khát máu mới khinh thường mạng sống con người. Giẫm đạp trên sanh mạng con người để làm nấc thang vinh hiển cho mình, thật không còn tội ác nào nặng bằng. Phật tử biết quí trọng sanh mạng mình, nên tôn trọng sanh mạng của kẻ khác. Tâm niệm từ bi bình đẳng xem mọi người như mình, điều gì mình không chịu, không làm cho kẻ khác phải chịu. Cho nên chính mình không giết người, không xúi bảo kẻ khác giết, cũng không cam tâm vui vẻ khi thấy người bị giết.

Đến các loài vật, Phật tử cũng không có ác tâm sát hại chúng, nếu không phải là vấn đề cần thiết. Bởi suy từ con người ra đến loài vật, con người sợ bị giết hại, loài vật cũng sợ bị giết hại. Tại sao chúng ta biết bảo vệ sanh mạng của chúng ta, vô cớ lại tàn sát sanh mạng loài vật? Tuy nhiên, đây chỉ là sự giảm bớt những sự giết hại vô cớ, ngoài ra vì hoàn cảnh, vì sự sống không thể tránh hẳn được.

Được vậy, mới là điều thiện tiêu cực, cần phải thực hành điều thiện tích cực. Nghĩa là mình không giết người, thấy người sắp bị giết lại tìm mọi phương tiện cứu thoát. Tất cả việc thiện không việc nào bằng cứu sống mạng người. Như nói:

Dù xây chín đợt phù đồ

Không bằng làm phước cứu cho một người.

Phật tử phải vận dụng tất cả khả năng sẵn có của mình tìm cách cứu thoát sanh mạng người. Ngoài sự bị giết hại, hoặc bệnh hoạn, tai nạn... có thể làm thương tổn sanh mạng người, Phật tử đều nhiệt tình cứu giúp. Các loài vật cũng thế. Chính mình thực hành cứu giúp lại khuyên người cũng thực hành. Đây là điều thiện tích cực của Phật tử.

2) Không trộm cướp: Sanh mạng con người, chúng ta đã quí trọng thì tài sản là huyết mạch, thiếu nó sẽ thương tổn đến sanh mạng, nên cũng quí trọng như thế. Chúng ta đau khổ khi mất của thế nào, người mất của đau khổ cũng vậy. Tại sao ta không ưng ai cướp đoạt của ta, mà ta lại đi cướp đoạt của người? Hành động như vậy thật là bất công, tàn ác. Ngoài những việc trộm cướp chánh thức ra, dùng mưu mô kế hoạch sang đoạt, lường lận của người đều thuộc phạm vi trộm cướp. Kẻ trộm cướp là phá hoại hết lòng từ bi, tăng trưởng tâm thâm độc. Họ là người từ khước hết mọi an lành, vui vẻ đưa mình vào cửa ngục đen tối khổ đau. Phật tử nguyện dứt hết đau khổ, cầu được an vui, nên xa lánh trộm cướp như tránh xa hang hùm miệng cọp. Chính mình không trộm cướp, không xúi bảo người, cũng không tán thành ai làm việc trộm cướp. Đây mới là phần thiện tiêu cực.

Chúng ta đã không có tâm trộm cướp của người, thấy người đói thiếu, khổ sở, còn phát tâm giúp đỡ, khiến họ được no ấm vui vẻ. Lòng từ bi không cho phép chúng ta no ấm, an ổn, để mặc người đói rét kêu than. Chúng ta nên xem nỗi khổ của người như nỗi khổ của mình. Thà chia sớt nhau miếng cơm, manh áo hơn là ngồi ăn mâm vàng, chén ngọc, để những người chung quanh mình đói khát, kêu van. Lo bồi bổ thân này toàn sơn hào hải vị, chẳng qua làm nặng nề thêm xác thúi ở thời gian sau. Chi bằng sống đạm bạc, nhín ăn, bớt mặc để chia sớt cho đồng bào đói thiếu, tuy thân này gầy ốm, nhưng tinh thần cao thượng ai bì. Người sẵn sàng ra tay chẩn tế, cứu nguy như vậy, gọi là hành động thiện tích cực.

3) Không tà dâm: Vật thuộc của người đã không được lấy, người thuộc về người cũng không được xâm phạm. Ai cũng muốn bảo vệ vật sở hữu của mình, nhất là tình thương thuộc sở hữu của ai không bao giờ họ chịu chia sẻ. Bởi vì chia sẻ tình thương có thể làm ly tán gia đình. Tình thương là sợi dây ràng buộc giữa vợ chồng trong gia đình, nếu sợi dây ấy đứt, gia đình sẽ tan vỡ. Xâm phạm đến tình thương của người tức là phá tan hạnh phúc của người, và có thể đe dọa đến sanh mạng người nữa. Chẳng những chỉ hại gia đình người mà còn mang họa về cho gia đình mình. Một hành động tổn hại lớn lao như vậy, thử hỏi người có lòng từ bi, có trí sáng suốt, có nhẫn tâm làm việc như vậy hay không? Vì thế, người Phật tử nhất định không tà dâm, không đồng ý và tán thành việc ấy.

Chẳng những Phật tử không tà dâm, mà còn đem pháp trinh thuận dạy bảo trong gia đình và gia đình người. Trinh thuận là hạnh nết tốt, đem an lành đến mọi gia đình. Phật tử tích cực khuyến khích, khen ngợi hạnh nết trinh thuận.

4) Không nói dối: Nói dối có tánh cách đảo ngược sự thật để thu lợi về mình, hoặc làm hại người. Tâm tham và ác là động cơ thúc đẩy nói dối. Nếu nói thật sẽ mất quyền lợi, hoặc không hại được người, nên họ nói dối. Phật tử rất yêu chuộng sự thật, không có tâm tham ác, nên không nói dối. Nói dối như thế sẽ làm tổn hại giá trị của mình, vì sự thật khó bề giấu được. Khi giá trị mình mất, đâu có thể lấy tài sản, danh vị gì mua lại được. Để bảo vệ giá trị của mình, cũng không làm đau khổ cho người, Phật tử không nói dối và không tán thành nói dối. Nói đùa nghịch nhau chơi, không nằm trong phạm vi nói dối. Tuy nhiên, có khi Phật tử bất đắc dĩ phải nói dối, nhưng do động cơ từ bi vì cứu nguy cho người và vật.

Đã không nói dối, người Phật tử nói lời chân thật, khuyên dạy người nói lời chân thật. Cuộc đời đã điên đảo lắm rồi, chúng ta đừng làm cho nó điên đảo thêm. Sự thật thế nào, chúng ta trình bày như thế, may ra  người ta còn tìm được lẽ phải, tránh khỏi oan trái cho kẻ khác. Mỗi người đều nói đảo ngược sự thật, tức xã hội này thành xã hội điêu ngoa, người sống ở đây không còn ai tin được ai nữa. Sống mà xung quanh mình không tin được một người, thử hỏi cuộc sống ấy đau khổ đến ngần nào? Vì thế, người Phật tử cương quyết nói thật, giáo hóa người nói thật.

5) Không nói hai lưỡi: Nói hai lưỡi là chủ tâm chia lìa nhau, đến người này bịa rằng người kia đã nói xấu người này, đến người kia bịa rằng người này đã nói xấu người kia. Nói như thế cũng gọi là nói “ly gián”. Do ganh tị hay thù hiềm, nên dùng lối này để phá tan tình thân của người, gây cho đôi bên nghi ngờ nhau, chống đối nhau. Mầm đấu tranh do đây mà ra. Người Phật tử quyết dẹp tâm ganh tị, thù hiềm nên không nói hai lưỡi, cũng không xúi bảo và tán thành người nói như vậy.

Đã không nói hai lưỡi, Phật tử còn nói lời hòa thuận khiến tình thân của họ càng thân hơn. Chúng ta phải cố gắng đem sự hòa thuận an vui lại cho mọi người. Tất cả cuộc tranh đấu đều gây đau khổ, tang tóc cho nhau. Có phương tiện gì đem lại sự hòa thuận cho mọi người, chúng ta phải nỗ lực làm. Chúng ta phải lấy nước từ bi chứa trong thâm tâm, dùng chót lưỡi làm phương tiện rưới tắt ngọn lửa đấu tranh của mọi người. Hòa thuận là nguồn hạnh phúc chung của nhân loại. Chúng ta phải khai thác nó, phải bảo vệ nó, như bảo vệ sanh mạng của chúng ta. Mầm chiến tranh, mầm tàn sát đều do bất hòa mà ra. Bất hòa là hiểm họa lớn nhất, từ cá nhân cho đến nhân loại. Người Phật tử bất cứ ở hoàn cảnh nào, ở trường hợp nào, đều nhất quyết nói lên tâm yêu chuộng hòa thuận, và khuyên mọi người hòa thuận.

6) Không ác khẩu: Ác khẩu là mắng nhiếc, chửi rủa, dùng những lời thô lỗ sỉ nhục người. Do tâm nóng giận xúi miệng nói những lời ác khẩu. Khi nói những lời nói ấy, khiến người ta đau khổ, tủi nhục, hận thù. Nếu chúng ta bị ai dùng một câu thô bỉ mắng nhiếc giữa đông người, không thể trả thù liền tại chỗ, về nhà suốt đêm không tài nào ngủ được. Mối hận ấy ôm giữ mãi, cho đến bao giờ trả thù xong mới hả dạ. Xét chúng ta như thế, suy người cũng vậy. Một câu nói ác khẩu gây đau khổ cho người, chuốc thù hận về mình, nên Phật tử nhất định không nói ác khẩu, cũng không xúi người và tán thành người nói ác khẩu.

Biết người đời ghét nói thô ác, chịu nghe nói mềm mỏng, chúng ta vừa tránh nói thô ác, vừa tập nói mềm mỏng. Lời nói mềm mỏng khiến người ta có cảm tình, khuyên dạy điều gì họ cũng nghe. Tập nói lời mềm mỏng thu hút cảm tình mọi người, để dìu dắt họ lần về đường đạo đức. Chỉ chịu khó tập lời nói mềm mỏng, tạo nên lợi mình, lợi người một cách hữu hiệu, thử hỏi còn tiếc gì chúng ta không cố gắng? Chẳng những mình cố gắng tập nói mềm mỏng, cũng khuyên dạy người nói mềm mỏng.

7) Không nói thêu dệt: Lời nói có tính cách thêu rồng vẽ phụng, phù phiếm, chua ngoa không hợp lý, ấy là nói thêu dệt. Động cơ phát xuất lời nói này là tâm bịp bợm, trau chuốt lời nói làm bùa mê thuốc lú say mê người, để dụ dỗ làm việc sai lầm, tội lỗi. Hiện tại gọi là những câu nói văn hoa, huê tình. Những câu nói này nghe rườm rà, bóng bẩy mà trống rỗng, không có nghĩa lý. Chúng ta là Phật tử yêu chuộng chân lý, phàm ra bàn nói việc gì đều vì tìm hiểu lẽ thật, không ưng nói lối văn hoa phù phiếm ấy. Tự mình không nói, cũng không tán thành người nói như vậy.

Đức Phật nói ra câu nào đều hợp tình, chúng ta là đệ tử của Ngài, há đi nói những lời vô lý, sai ngoa hay sao? Cho nên, chúng ta phải nói những lời đúng lý. Chúng ta luôn luôn mượn lời nói làm phương tiện diễn đạt tư tưởng của mình. Chúng ta luôn luôn mượn lời nói làm phương tiện diễn đạt tư tưởng của chúng ta, cho mọi người chung quanh hiểu thấu thông cảm. Vì thế, chúng ta phải dè dặt, lời nào hợp lý mới nói, vô lý không nói, đồng thời khuyến khích mọi người tập nói hợp lý.

8) Không tham: Tham có chia hai loại: tham để cầu tiến và tham mê dục lạc. Ở đây nói tham là chỉ loại tham mê dục lạc, khiến suốt đời chìm sâu trong hố tội lỗi, khó bề thoát được. Nó là động cơ gây nhiều tội ác gớm ghê. Những hành động giết người, cướp của, tình địch bắn nhau, cho đến kéo từng đoàn quân sang cướp nước người đều do lòng tham chủ động. Lòng tham ấy không có ngằn mé, ở người tầm thường thì gian lận, trộm cướp, ở kẻ quyền thế thì sang đoạt, xâm lăng. Có thể nói ở thế gian không có một ngày nào được an ổn, đều gốc ở lòng tham con người mà nên. Đây chỉ phác họa sơ vài nét đại cương tai hại của lòng tham, nếu nói đủ thì không sao kể xiết. Chúng ta đã biết họa hại của lòng tham rồi, nhất định hạn chế, kềm hãm cho đến khi nào không còn tham nữa.

Tuy nhiên, tham cầu tiến chúng ta phải có, vì nó là sức mạnh thúc đẩy nhân loại mau tiến bộ. Như trong việc học hành,  cậu học trò không tham học chóng giỏi, thì khó có ngày đỗ đạt. Bất cứ nghề nghiệp nào, nếu không tham muốn làm xuất sắc hơn người, thì không thể biến chế các kiểu mới, phát minh những điều lạ. Đến trong việc tu hành cũng thế, nếu không tham cầu mau thành Phật, chắc người ta cứ lững thững qua ngày, không nỗ lực tinh tấn. Cho nên tham dục lạc phải đừng, tham cầu tiến phải có.

Đối với dục lạc, chúng ta cố gắng hạn chế lòng tham, lại tập hạnh thiểu dục, tri túc. Có thiểu dục, tri túc, đời sống chúng ta mới giữ được hai chữ “thanh bần”. Có của, chúng ta mới làm việc bố thí được. Người Phật tử có “an bần lạc đạo” là nhờ tập thiểu dục, tri túc. Thiểu dục, tri túc là lá bùa gìn giữ giá trị chúng ta không bị hoen ố. Có thiểu dục, tri túc bất cứ ở trong ngành nào, giá trị chúng ta đều trong như băng, trắng như tuyết. Thiểu dục, tri túc vừa chận được lòng tham, vừa giữ giá trị chúng ta được nguyên trinh, nên chúng ta cố gắng tập và khuyến khích người tập.

9) Không sân: Sân là nóng giận, thù hằn. Nó là chủ nhân của ác khẩu và tranh đấu. Có nóng giận rồi, phát ra lời nói không thể nào êm ái, phát ra hành động không thể nào nhẹ nhàng. Nó là ngọn lửa dữ thiêu hết những đức tánh tốt của mình. Có sân trong người như nuôi rắn độc trong nhà, sớm muộn gì cũng có ngày bị hại. Ngọn lửa sân nếu không chế ngự được, có thể thiêu cả thế gian. Con người khi nổi sân lên, tất cả điều lành lẽ phải, tai họa nguy hiểm, không còn nghĩa lý gì nữa. Khi sân rồi không tội ác nào mà chẳng dám làm. Chúng ta cố gắng kềm hãm lòng sân, như đề phòng hỏa hoạn. Một phút sơ ý có thể gây tai họa khôn lường. Biết lửa sân nguy hiểm như vậy, Phật tử chúng ta nỗ lực diệt sân và khuyên người diệt.

Chẳng những lo diệt sân, Phật tử còn tập hạnh từ bi. Chỉ có nước từ bi mới dập tắt được ngọn lửa sân. Từ bi mang đến cho chúng ta một biển nước tình thương tràn trề lênh láng đối với mọi người, nên ngọn lửa sân không còn bổi để nhúm dậy. Biển nước tình thương ấy tràn đến đâu, mầm lửa sân tắt ngụm ở đấy. Nước từ bi tắm mát mọi người đang nóng bức vì lửa hận thù nhen nhúm trong lòng. Thế gian này sẽ mát rượi, khi nào trong lòng mọi người tràn trề những nước từ bi. Từ bi là hoa, là bướm, là ánh nắng, là mùa xuân... là tất cả hạnh phúc của con người. Để làm đẹp thế gian, Phật tử tập hạnh từ bi và khuyến khích mọi người tập hạnh từ bi.

10) Không si: Si có chia hai loại: si mê đần độn và tà kiến. Người si mê đần độn không phân biệt lẽ phải chăng, xúc cảnh ù ù, cạc cạc, nói bướng làm càn, gây tội lỗi không ít. Vì si mê đần độn, bị người xúi sử làm những điều tàn bạo mà không biết, hành động xấu xa mà không hay. Người như vậy chỉ một bề sa đọa không thể tiến lên. Họ sống giữa bạch nhật, thanh thiên như đi trong đêm trường mù mịt.

Người tà kiến có suy xét, có nhận định, song suy xét nhận định sai lầm, rồi chấp chặt chỗ đó làm sở đắc. Do chấp chặt chỗ sai lầm đó, cả đời chỉ quay cuồng trong vòng lẩn thẩn. Chẳng những riêng đời họ sai lầm, họ còn lôi kéo những người cùng theo con đường sai lầm ấy. Như một người mù dẫn cả đoàn mù, sớm muộn gì cũng rơi xuống hố! Người mang nặng tà kiến như kẻ mang cặp kiếng màu, họ nhìn thế gian chỉ thấy một màu theo mắt kiếng của họ, khi ấy dù ai nói thế nào họ cũng không tin, trừ khi họ gỡ đôi mắt kiếng. Do tà kiến, họ tự chuốc họa, lại còn gây họa cho người. Như họ chủ trương không có tội phước, bản thân họ không sợ tội, không làm phước, còn dạy người không sợ tội, không làm phước. Vì thế càng ngày càng gây tội ngập trời.

Hai loại si như thế đều nguy hiểm, người Phật tử quyết định diệt trừ si mê. Tự mình diệt trừ si mê, cũng dạy người diệt trừ si mê.

Muốn dứt hết gốc si mê, Phật tử học tập trí tuệ. Trí tuệ là mặt trời sáng quét sạch mọi tối tăm. Trí tuệ là chiếc búa bén chặt ngã đám rừng si mê. Trí tuệ là thanh kiếm thần dẹp sạch bọn quân tà kiến. Muốn học tập trí tuệ, chúng ta phải học hỏi chánh pháp và tu tập thiền định. Chánh pháp có công dụng mở cho ta cặp mắt sáng, thiền định có công năng phát huy ánh sáng. Có mắt và có ánh sáng, chúng ta mới khỏi sa đọa lạc lầm. Chúng ta vì muốn thoát khỏi luới si mê, nên cố gắng học tập trí tuệ, vì muốn dẹp si mê cho thế gian nên khuyên người học tập trí tuệ. Tóm lại, mười điều thiện này, đứng về mặt tiêu cực: không giết hại người vật, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không nói thêu dệt, không tham, không sân, không si. Đứng về mặt tích cực: phóng sanh, bố thí, trinh thuận, nói chân thật, nói hòa thuận, nói mềm mỏng, nói hợp lý, thiểu dục, tri túc, từ bi, trí tuệ. Chúng ta tùy theo khả năng, trong mười điều tu tập dần dần. Không phải bắt buộc chúng ta trong thời gian ngắn tu tập trọn vẹn hết, mà cần nỗ lực tu tập suốt đời, mài giũa lâu ngày mới sạch. Chúng ta đừng sợ nó khó, chỉ sợ mình không quyết chí. Nếu quyết chí rồi, thế nào có ngày chúng ta sẽ tu tập viên mãn.

Sở dĩ mười điều này được gọi là thiện, vì nó có đủ hai điều kiện căn bản: tình thương chân thật, trí sáng suốt. Dù đứng về phương diện tiêu cực hay tích cực cũng thế. Ví dụ:  Không giết hại người vật. Tại sao? Vì tình thương nhân loại, vật loại và xét biết tai họa sẽ trở hại mình. Chín điều sau đều tương tự như vậy. Đứng về mặt tích cực, chúng ta càng thấy rõ ràng hơn. Ví dụ: Bố thí. Tại sao? Vì thương người đói khổ và biết làm như vậy họ sẽ an vui. Mười điều này hẳn là thiện, dù ở địa phương nào, thời gian nào cũng không thể phủ nhận nó được. Ngược lại với mười điều này, là mười điều ác. Người Phật tử quyết dứt ác tu thiện, nên cứ y mười điều này làm tiêu chuẩn tu hành.

Mục Lục
Phật Giáo Với Dân Tộc (1998)
Danh sách chương: