Phật Giáo Với Dân Tộc (1998)
Vài Nét Chính Luận Lý Phật Giáo - Phật Tử Tại Gia (II)
B. GIA ĐÌNH I.- CHA MẸ Người Phật tử đối với cha mẹ phải là đứa con chí hiếu. Bởi vì chúng ta đã biết chọn con đường đạo đức, học theo đạo từ bi, với tất cả chúng sanh còn phát tâm thương xót, huống hồ là cha mẹ, người đã sanh thành dưỡng dục chúng ta. Dù bởi lý do này hay lý do khác, người Phật tử cũng không có quyền bất hiếu. Đã bất hiếu với cha mẹ thì không còn tội ác nào mà chẳng dám làm. Đối với cha mẹ mà bất hiếu, ai tin mình là người đạo đức được. Người bất hiếu đã phá vỡ tất cả công hạnh lành, hủy hoại hết hạt giống phước đức. Trong kinh có đoạn chép: Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo: Nếu có người biết đền đáp, người này đáng kính đáng mến, dù một chút ơn nhỏ còn không quên, huống là ơn lớn. Giả sử người này ở cách xa ta ngàn do-tuần, trăm ngàn do-tuần vẫn không phải là xa, mà gần bên ta. Vì cớ sao? Tỳ-kheo! Vì ta hằng khen ngợi người biết đền đáp. Những người không biết đền đáp, ơn lớn còn không nhớ, huống là ơn nhỏ. Người ấy không thể gần ta, ta cũng không gần người ấy. Giả sử người ấy mặc y đứng hầu bên cạnh ta, người ấy vẫn cách xa ta muôn dặm. Vì cớ sao? Vì ta không bao giờ nói không đền đáp... (Kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 10, phẩm Thiện tri thức 20, bài số 5) Phật dạy: “Ơn nhỏ còn chẳng quên, huống là ơn lớn.” Ơn cha mẹ sánh với tất cả ơn trong đời chúng ta có ơn nào bằng? Ơn lớn ấy, chúng ta còn quên được, tất cả ơn khác lửng đi nào có khó gì? Ơn nghĩa là nền tảng đạo đức, chúng ta không quí trọng thử hỏi còn gì là đạo đức? Vì thế, Phật nói: “Người quên ơn dù mặc y đứng hầu bên cạnh ta, vẫn cách xa ta muôn dặm.” Ơn cha mẹ như trời cao, biển cả, muốn đền đáp dù nát thân này cũng chưa tròn. Như kinh chép: Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo: Dạy hai người làm lành không được đền ơn. Hai người là ai? Là cha và mẹ. Tỳ-kheo! Nếu có người vai trái cõng cha, vai mặt cõng mẹ đến ngàn muôn năm, cha mẹ ăn uống, ngồi nằm, bệnh hoạn, cho đến đại tiểu tiện đều ở trên vai, vẫn không được đền được ơn. Tỳ-kheo! Phải biết ơn nặng của cha mẹ: bồng ẵm, nuôi nấng, tùy thời săn sóc không sái thời tiết, không kể tháng ngày. Vì thế ơn cha mẹ rất khó đền đáp... (Kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 10, phẩm Thiện tri thức 20, bài số 11) Công ơn cha mẹ nặng nề như vậy, Phật tử chúng ta làm sao dám quên. Cha mẹ đã tạo nên thân này, dù đem thân này lót làm sàng làm ghế cho cha mẹ ngồi cũng chưa đủ đền ơn. Đối với người xuất gia mà Phật còn đinh ninh dạy bảo phải lo đền đáp, huống là Phật tử tại gia. Ơn cha mẹ rất khó đền đáp, song người con hiếu cứ đem hết tấm lòng hiếu thảo của mình mà ăn ở cũng quí lắm rồi. Có vị Bà-la-môn niên thiếu hỏi Phật: “Thế Tôn! Tôi thường như pháp đi khất thực đem về cúng dường cha mẹ khiến lìa khổ được vui. Thế Tôn! Tôi làm như thế được phước nhiều chăng?” Phật bảo: “Thật được phước nhiều. Vì cớ sao? - Nếu có người như pháp cầu xin, cúng dường cha mẹ khiến lìa khổ được an vui, thật có đại phước.” Thế Tôn liền nói kệ: Như pháp đối cha mẹ, (Kinh Tạp A-hàm, quyển 4, kinh Uất-đa-la) Biết cúng dường cha mẹ, dù đi khất thực đem về dâng cha mẹ còn có phước lớn, huống người tự làm ra tiền của cúng dường cha mẹ, quí biết chừng nào! Chỉ lo chúng ta không có thật tâm hiếu thảo, nếu có thật tâm hiếu thảo bất cứ ở hoàn cảnh nào cũng có thể thực hiện được. Lo cung cấp cha mẹ mọi điều kiện vật chất đầy đủ, đã chí hiếu lắm rồi, song chưa đủ đền đáp công ơn cha mẹ. Muốn đền đáp công ơn cha mẹ, phải khuyên cha mẹ hướng về đạo đức, qui kính Tam Bảo, được vậy mới gọi là đền đáp công ơn cha mẹ. Kinh chép: Phật hỏi các thầy Sa-môn: “Con nuôi cha mẹ, lấy cam lồ trăm vị làm thức ăn, dùng thiên nhạc làm vui tai, sắm y phục hảo hạng mặc nơi thân, vai cõng cha mẹ đi khắp bốn phương, suốt đời phụng dưỡng như vậy, đáng gọi là hiếu chăng?” Các thầy Sa-môn thưa: “Người này là đại hiếu!” Phật dạy: “Chưa gọi là hiếu”... Phật bảo các thầy Sa-môn: “Xem người thế gian không có hiếu thảo, chỉ thế này mới gọi là hiếu: Hãy khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, thọ Tam qui, giữ Ngũ giới. Dù cha mẹ sớm mai thọ trì qui giới, chiều có chết, đối với ơn nặng cha mẹ nuôi dưỡng, bú sú vô lượng cũng gọi là tạm đền.” (Kinh Hiếu Tử N. 687 Đ.C.T.T. tập 32, trang 780) Người con muốn báo đáp ơn cha mẹ, phải lo cung cấp những thứ cần dùng cho cha mẹ được ấm no an ổn, lại phải tìm phương tiện khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành và qui y, giữ giới. Được vậy, mới gọi là báo đáp toàn vẹn cả vật chất lẫn tinh thần ở hiện tại và vị lai. Nếu ai có phước được cha mẹ sớm biết đạo đức, phải cố gắng làm sao cho cha mẹ có nhiều phương tiện hoạt động đạo đức hơn. Không bao giờ dám ngăn cản cha mẹ làm việc đạo đức, mà chính mình có bổn phận khuyến khích thêm. Cha mẹ là đấng tối tôn, tối kính nhất đối với con. Cho nên người biết thờ kính cha mẹ là thờ kính Phật, thiên, thần... đầy đủ cả. Kinh chép: Nếu có người muốn được vua Phạm Thiên ở trong nhà hãy hiếu dưỡng cha mẹ, vua Phạm Thiên đã có ở trong nhà, muốn có Đế Thích ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, Đế Thích sẵn ở trong nhà, muốn được tất cả thiên thần ở trong nhà, chỉ cúng dường cha mẹ, tất cả thiên thần đều ở trong nhà, cho đến muốn cúng dường Thánh Hiền và Phật, chỉ cúng dường cha mẹ, các vị Thánh Hiền và Phật đều ở trong nhà. (Kinh Tạp Bảo Tạng) Như vậy, kính thờ cha mẹ là kính thờ tất cả Thánh Hiền và Phật. Tại sao chúng ta chỉ biết quí kính Thánh Hiền và Phật mà thờ ơ với cha mẹ? Đó là chúng ta đã bỏ cội gốc phước đức, đi tìm ngọn ngành. Thật đúng câu: Phật trong nhà không thờ, Thật ơn cha mẹ cao cả lớn lao biết mấy, ngàn xưa các bậc Thánh Hiền đều kính thờ tôn trọng, mà hiện nay có một bọn vong ân bội nghĩa chủ trương rằng: “Cha mẹ không có ơn nghĩa gì với con, sự bất đắc dĩ phải nuôi ấy thôi.” Họ là người từ chối mọi ân nghĩa, phản đối tất cả Thánh Hiền, thật là kẻ đang xây mặt vào ngục tối, đáng thương thay! II.- ANH EM Người Phật tử sống trong gia đình phải giữ trên thuận, dưới hòa. Anh em có hòa mục thì gia đình mới an vui, êm ấm. Đối với cha mẹ, chúng ta là đứa con hiếu, đối với anh chị em, chúng ta phải là người anh chị hiền, đứa em thảo. Phải cứ y vào tinh thần đạo đức cư xử với anh chị em, cho tình cốt nhục càng thêm gắn bó. Chị ngã em nâng, em khổ chị buồn. Sự sống chết có nhau, đói no đồng hưởng, đừng vì tiền của, đừng vì tất cả bên ngoài, cắt đứt tình ruột thịt, chia rẽ nghĩa tay chân. Trong gia đình không tạo được tình thân yêu nhau, ngoài xã hội tìm đâu có tình thương chân thật. Lòng từ bi của chúng ta có thể bủa khắp nhân loại, nhưng điểm phát xuất của nó phải từ trong gia đình. Đối với anh em ruột thịt, chúng ta hằn học nhau, với người không chung máu mủ làm sao có lòng thương chân thành? Tuy nhiên, anh chị em đôi khi tánh tình khác nhau, vì thế sợi dây hòa mục lắm lúc bị thương tổn. Dù vậy với tinh thần Phật tử, chúng ta phải trải hết tâm can để cư xử với anh em. Phải vận dụng tất cả lòng chân thành và trí sáng suốt để cảnh tỉnh anh em mình. Đức Phật trước kia còn hi sinh thân mình cho cọp đói, tại sao chúng ta không thể hi sinh những gì cần thiết cho anh em ruột thịt chúng ta? Tình anh em muốn được ngày càng thấm thía đậm đà, Phật dạy phải đủ bốn điều: 1) Đồng chung vui khổ: Nghĩa là phải vì anh em mà quên cả thân mình, quên cả vợ con và chịu đựng mọi lời phiền trách. 2) Hằng thương tưởng: Phải vì anh em khuyên dạy những điều lành, cản ngăn những việc ác, khen ngợi những điều tốt, tìm cách dứt những oán thù. 3) Cầu lợi: Đối với anh em có những việc kín không giấu giếm nhau, được lợi cùng vui mừng, không được lợi cũng chẳng buồn rầu. 4) Giúp ích: Biết anh em tiền của còn hay hết; nếu biết hết sẵn sàng giúp đỡ, thấy anh em chơi bời thì tìm cách ngăn cản quở trách, luôn luôn thương xót. (Kinh Trung A-hàm, phẩm Đại, bài Kinh Thiện Sanh 19) Đối xử như bốn điều đức Phật dạy ở đây, chắc rằng tình anh em, chị em không bao giờ chia lìa được. Tinh thần Phật tử, chúng ta cố gắng siết chặt tình huynh đệ, đừng bao giờ để cho “cốt nhục tương tàn”. III.- VỢ CHỒNG Nghĩa vợ chồng cần phải kính mến, nhường nhịn nhau. Sự sống chung đụng lâu ngày dù thương nhau thế mấy, nếu thiếu sự kính nhường đều có thể gây tổn mối tình chung thủy. Đừng lấy quyền chồng lấn hiếp vợ, đừng ỷ thế vợ khinh khi chồng, quyền lợi phải giữ như cán cân, không thiên lệch bên nào. Nếu có thiên lệch sẽ có chia rẽ. Cũng đừng để ai hi sinh cho ai. Bởi vì cuộc sống hợp đồng, phải tôn trọng quyền lợi thiêng liêng của đôi bên. Không bao giờ có hai vợ chồng tánh tình giống hệt nhau. Vì thế, không hợp nhau là lẽ dĩ nhiên, cho nên hai bên phải khéo dung hòa nhau. Mến tánh tốt này của nhau, phải chịu đựng tánh xấu nọ của nhau. Đừng than phiền, đừng đòi hỏi, đừng tìm kiếm đâu nữa, cái người như mình tưởng tượng. Lúc ở xa nhau, thấy tánh tình hạnh nết rất thích hợp, nhưng bắt buộc sống chung sẽ thấy hiện nhiều tật xấu khó chịu. Nguyên tắc duy nhất bảo đảm cho cuộc sống chung là “khôn khéo sửa đổi cho nhau và chân thành phục thiện”. Dù người chồng hay người vợ, lúc nào cũng dẹp tự ái, đừng coi mình là hiện thân của chân lý. Sống trong cuộc đời tương đối, cái gì cũng phải châm chước với nhau. Đòi hỏi một con người toàn thiện, tìm khắp thế gian không thể có. Theo tinh thần Phật dạy trong kinh Thiện Sanh: Người chồng phải thật tình thương mến vợ, không bao giờ dám khinh khi, sắm đồ trang sức tùy khả năng, tùy sở thích của vợ, cho vợ trọn quyền sắp đặt việc nhà, xem thân tộc bên vợ cũng như bên mình. Người vợ phải mến trọng săn sóc chồng, hằng tưởng nhớ đến chồng, quản thủ việc nhà, chăm nom thân tộc của chồng, thức khuya dậy sớm lo gia nghiệp, nói năng chân thật ôn hòa, không bó buộc chồng quá đáng, chào mừng khi đi đâu về và lo thức ăn chỗ nghỉ cho chồng(1). Đương nhiên, vợ chồng đều phải giữ ba giới đầu. Có vậy, trong nhà mới trọn niềm tin tưởng nhau. Đã tin cậy nhau, phải tôn trọng tự do, đừng kềm hãm, bó buộc, khiến người ta sanh bực bội, dù vì tình thương cũng vậy. IV.- CON CÁI Làm cha mẹ phải khéo dạy dỗ con cái. Từ tấm bé, cha mẹ đã để ý đến khả năng, đạo đức của con. Thấy nó có khả năng nào, lớn lên cho học theo ngành đó. Nhất là về đạo đức, cha mẹ phải tập tành cho con thuần thục. Những trò chơi ác như: bắn chim, đá dế, đập bồ cào..., cha mẹ phải dạy rầy cho chúng bỏ. Cắt nghĩa cho chúng biết sợ tội, ham làm phước. Thấy người bệnh tật, nghèo đói, dạy chúng thương xót cứu giúp. Kể cho chúng nghe những gương đức hạnh, hiếu thảo, tiết nghĩa. Dạy chúng biết chọn bạn tốt chơi, bạn xấu lánh xa. Cha mẹ đừng vì thương con cố làm giàu để của cho chúng mà phải lo cho con có đức, có tài. Sự nghiệp của cải không đảm bảo đời sống của chúng sau này, chỉ có tài đức mới thật là một bảo đảm hữu hiệu. Đừng vì thương con cố làm ác, có của nhiều để lại cho chúng; để lại như vậy chỉ là lưu oan gia chớ không phải sự nghiệp. Cha mẹ phải lấy đức hạnh để lại cho con; để đức hạnh mới là một gia bảo quí giá. Cha mẹ là tấm gương sáng gần nhất để con cái hằng ngày noi theo. Nếu cha mẹ hằng ngày làm những điều sái quấy, tội lỗi, bất hòa, muốn con được hòa thuận và làm phải là vô lý. Cha mẹ luôn phải nhớ câu này: “Cha lành con thảo.” Cha có lành con mới thảo được. Khi nghĩ tới giáo dục con cái, cha mẹ phải nhớ mình là gương mẫu của chúng. Con lớn lên, cha mẹ đừng bao giờ lấy quyền cha mẹ bắt con phải làm thế này, thế nọ. Phải hiểu tư tưởng tâm lý chúng, tùy theo đó hướng dẫn chúng. Có nhiều đứa con kêu lên: “Cha mẹ không thông cảm con.” Chỉ vì cha mẹ hiểu theo cái tuổi và nếp sống của mình, không chịu tìm hiểu hoàn cảnh xã hội của con hiện tại theo lứa tuổi của chúng. Cha mẹ phải khéo quan sát tinh tường hoàn cảnh tư tưởng của con mà giáo dục chúng. Đừng làm việc độc tài, bắt chúng phải răm rắp tuân theo mình. Có thế, mới hi vọng giáo dục con được. V.- BẠN BÈ Đã cùng sống chung cõi đời nhiều tai ách hoạn nạn này, chúng ta phải cần có bạn bè để cùng chia vui sớt buồn với nhau. Thiếu bạn bè như con chim lạc đàn, một mình bay trong bầu trời rộng cô đơn. Song bạn bè, chúng ta phải chọn người lành, người tốt; lánh xa người dữ, người hư hèn, trừ phi vị nào tu Bồ-tát hạnh. Gần bạn lành, chúng ta càng ngày càng tăng trưởng tánh tốt, gần bạn dữ, chúng ta càng nhiễm những tánh xấu xa. Gần bạn lành như đứng gần lò trầm, tuy không thơm hẳn, nhưng lâu sẽ nghe phảng phất mùi hương. Gần bạn ác như tay nắm cá tanh, tuy bỏ xuống rửa tay, song mùi tanh vẫn chưa hết. Chọn bạn là vấn đề hệ trọng trong đời sống chúng ta vậy. Muốn phân biệt bạn lành, bạn dữ thể theo lời Phật dạy, chúng ta biện biệt: Bạn lành: người gần ta chỉ vì tình thân, không vì danh vị quyền lợi, thường ngăn ta điều xấu, khen ta điều tốt, coi sự đau khổ vui mừng của ta như của người, không vì được việc của người để ta chịu thiệt thòi, lúc nào cũng tôn trọng giá trị và quyền lợi của ta. Bạn dữ: người gần ta chỉ cốt lợi dụng, thường xúi giục ta làm việc hư hèn, khi có tiệc tùng vui vẻ thì có mặt, lúc ta bị hoạn nạn đau khổ thì lánh xa, luôn luôn muốn được việc của họ mà không nghĩ đến sự thiệt thòi của ta, có mặt ta thì khen, vắng ta thì nói xấu. Chọn được bạn lành, chúng ta phải đối xử như đối xử với anh em ruột thịt. Lúc nào cũng kính trọng thương mến nhau. Có bạn lành chúng ta được thêm nhiều lợi ích. Kinh nói: “Có bạn lành là đủ: tín, giới, thí, văn, tuệ.” Nghĩa là bạn lành hướng dẫn chúng ta lòng tin chân chánh, khuyên chúng ta giữ gìn giới luật trong sạch, nhắc chúng ta làm việc bố thí cứu giúp người vật, giải thích cho ta nghe những điều hay lẽ phải ta chưa được nghe, chỉ vẽ cho ta học tập càng ngày càng tăng trưởng trí tuệ. Ngược lại những điều này tức là bạn dữ. C. XÃ HỘI Sống trong xã hội tương quan tương duyên, mình và mọi người có sự liên quan mật thiết nhau. Sự ràng rịt mọi người với mình là sợi dây ân nghĩa. Do nương nhờ nhau chúng ta mới có sự sống an ổn. Cho nên mọi người trong xã hội đều là ân nhân của chúng ta. Như trong kinh Ưu-bà-tắc, Phật dạy: “Người nghỉ nhờ dưới bóng cây, cho đến thời gian ngắn, cẩn thận chớ bẻ hoa lá.” Tại sao Phật dạy chúng ta không được bẻ hoa lá? - Vì cây ấy đã che mát cho ta trong thời gian ngắn. Đức Phật dạy ta phải biết ơn, cái công ơn che mát cho ta, không nên có tâm phá hoại nó. Cái cây mà Phật còn dạy chúng ta biết ơn huống chi là nhân loại. Chúng ta đi đường nhờ xe; qua sông nhờ đò; ở nhà nhờ thợ mộc thợ nề; mặc áo nhờ thợ dệt, người trồng bông; ăn cơm nhờ nông phu, người khuân vác, nấu nướng; đau nhờ thầy xem mạch cho thuốc; đi học nhờ thầy giáo v.v... và v.v... Tách rời mọi người ra, chúng ta khó có sự sống bảo đảm an toàn. Cho nên chúng ta phải biết ơn tất cả mọi người. Đối với mọi người, chúng ta chỉ có bổn phận giúp đỡ, không được làm tổn hại. Sự khổ của người đời không thể nào kể hết, tùy khả năng chúng ta giúp đỡ đến đâu quí đến đấy. Nếu gặp người đói rét, chúng ta tùy sức cho cơm ăn áo mặc. Thấy người bệnh hoạn, chúng ta săn sóc thuốc men. Kinh chép: Phật dạy: Này các Tỳ-kheo! Người săn sóc bệnh nhân là săn sóc ta vậy. Người khán bệnh là khán ta rồi. Sở dĩ như vậy, vì ta nay đích thân săn sóc những người bệnh tật. Các Tỳ-kheo! Ta không thấy người nào, đối chư thiên thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn trong việc bố thí tối thượng hơn việc bố thí này. Người thực hành bố thí này mới là bố thí, được quả báo lớn, được công đức lớn, tiếng tốt đồn khắp, được pháp vị cam lồ. Như Lai chí chân đẳng chánh giác biết trong việc bố thí tối thượng không việc nào hơn bố thí này... (Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển 5, phẩm Nhập Đạo bài số 4) Săn sóc, nuôi nấng bệnh nhân là công đức rất lớn, là môn phước điền thứ nhất trong tám thứ phước điền. Người Phật tử sẵn sàng cứu giúp mọi người, không bao giờ làm cho ai đau khổ. Chẳng những giúp người bằng vật chất, sức lực lại còn giúp bằng tinh thần. Thấy người làm ác, tìm cách khuyên họ bỏ ác. Biết người muốn gần đạo đức, hướng dẫn họ đến đạo đức. Có người không biết tội phước, giảng giải cho họ biết tội phước. Có người nhiều sợ hãi, dạy họ niềm tin và ủng hộ cho họ hết sợ hãi... Chúng ta hãy đem tấm thân này làm miếng vải để băng bó những vết thương đau của xã hội, vì xã hội và ta không thể xa rời nhau. (1) Phần này nên xem trong kinh Thiện Sanh đã dịch ra Việt ngữ, và trong Phật Học Phổ Thông khóa II, bài Bổn phận Phật tử tại gia. Mục Lục
|
Phật Giáo Với Dân Tộc (1998)
|
Phật Giáo Trong Mạch Sống Dân Tộc - Chương IV: Thái Độ Sai Lầm Của Phật Tử Việt Nam Hiện Tại
Vài Nét Chính Luận Lý Phật Giáo - Phật Tử Tại Gia (II)
Vài Nét Chính Luận Lý Phật Giáo - Luân Lý Phật Giáo Không Phải Giáo Điều
Đạo Phật Với Tuổi Trẻ - Người Tu Phật Phải Là Kẻ Chán Đời Chăng?