Kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải
Phẩm 2 BÁT-NHÃ (Giảng 3)
Này Thiện tri thức, trí tuệ quán chiếu trong ngoài sáng suốt, biết Bản tâm mình, nếu biết Bản tâm tức là gốc của sự giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội, tức là vô niệm. Ngài dạy cho chúng ta thấy do dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, nên trong ngoài chúng ta đều rỗng suốt, do đó chúng ta mới nhận ra được Bản tâm. Tôi thường nói với quí vị muốn biết được cái thật thì điều kiện tiên quyết là phải nhận ra cái giả. Biết được cái giả rõ ràng thì trên cái giả đó mình mới nhận ra mặt thật. Vì vậy từ Quán chiếu Bát-nhã chúng ta mới thấy được vọng niệm là hư giả, vọng niệm hết rồi thì Tự tánh chân thật mới hiển bày. Tự tánh chân thật hiển bày là mình thấy được Bản tâm của mình; thấy được Bản tâm là gốc của giải thoát. Thế nên tôi thường nói giác ngộ mới giải thoát. Thấy được Bản tâm tức là thấy được cái chân thật, nhân thấy được cái chân thật nên tất cả những vọng tưởng phiền não hư giả không còn đủ sức lôi cuốn chúng ta nữa, như vậy mới gọi là thoát ly sanh tử. Nếu không có giác ngộ thì không bao giờ giải thoát, mà muốn giác ngộ là phải thấy được cái thật. Muốn thấy cái thật thì trước phải biết cái giả. Muốn biết cái giả phải dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu. Chúng ta quán thấy các pháp là duyên hợp hư giả, nhưng không phải là bi quan, vì chúng ta biết rõ cái giả để nhận ra cái thật, chớ không phải để chán. Nếu không nhận ra cái thật thì người ta có thể bi quan, còn chúng ta biết ngay cái giả đó có cái thật, như vậy sự tu mới đưa chúng ta đến chỗ viên mãn cứu kính. Ngài dạy rằng được giải thoát như thế là được Bát-nhã tam-muội, đó là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm. Thật là đơn giản! Vô niệm là gì? Thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm. Không nhiễm trước là không dính, không mắc. Thấy người, thấy vật, thấy đủ cả, biết rõ ràng mà không dính mắc nơi người, nơi vật, đó là vô niệm. Còn dính là có niệm. Suy nghĩ về người, về vật thì sự suy nghĩ đó làm cho chúng ta có niệm thương ghét... đó là chúng ta dính mắc. Thế nên khi chúng ta thấy tất cả mà không suy nghĩ việc đó thế này, thế kia v.v... thì đó là vô niệm. Nếu vô niệm thì thế nào? Dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh nơi Bản tâm, khiến sáu thức ra sáu cửa đối trong sáu trần không nhiễm không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là vô niệm hạnh. Ngài dạy thật là cụ thể. Ngài bảo rằng đối với tất cả pháp mà tâm không nhiễm, không trước, đó là vô niệm; vì không nhiễm không trước nên dụng khắp tất cả chỗ nhưng không dính mắc ở tất cả chỗ, chỉ Bản tâm mình thanh tịnh. Khi Bản tâm thanh tịnh thì sáu thức ra sáu cửa: lỗ tai có cái biết của lỗ tai, con mắt cũng có cái biết của con mắt..., sáu thức ra vào đối tiếp với sáu trần nhưng không dính, không lẫn trong sáu trần, đi lại tự do, như vậy gọi là Bát-nhã tam-muội. Đừng nghe nói tam-muội là chánh định rồi tưởng rằng ngồi một chỗ, ngó xuống, tâm yên hết thì gọi là chánh định Bát-nhã. Làm thế nào sáu căn tiếp xúc sáu trần vẫn có sáu thức phân biệt, nhưng không dính, không kẹt lẫn trong sáu trần thì đó là Bát-nhã tam-muội. Như vậy tu Bát-nhã tam-muội dễ hay khó? Đâu có bắt chúng ta ngồi một chỗ kềm cho được yên lặng rỗng rang, chỉ làm sao sáu căn tiếp xúc với sáu trần, có sáu thức theo đó nhưng không dính không kẹt với sáu trần, đó là Bát-nhã tam-muội. Như thế quí vị có thể cả ngày đi ngoài đường ngoài chợ mà vẫn Bát-nhã tam-muội như thường. Trái lại nếu bị dính mắc thì hết tam-muội! Đấy sự tu hành rõ ràng như thế, nên Ngài nói “khiến cho sáu thức ra sáu cửa tiếp xúc sáu trần mà không nhiễm, không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt, đó là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là vô niệm hạnh”. Như vậy không dính không mắc rồi giải thoát tự tại đó gọi là vô niệm hạnh, nghĩa là cái hạnh vô niệm. Trong khi hành động đối với mọi cảnh, mọi người chúng ta hằng sống trong vô niệm. Đến đây Ngài mới quở chỗ bệnh: Nếu trăm vật chẳng nghĩ, chính khi đó khiến cho niệm bặt đi, ấy là pháp phược, ấy gọi là biên kiến. Qua đoạn này quí vị thấy lối tu của Lục Tổ rõ ràng khác với lối tu của những người kềm giữ. Ngài nói rằng nếu trăm vật chẳng nghĩ tức là mình chối bỏ tất cả không dám thấy, không dám biết gì hết, chỉ ngồi một chỗ kềm, đè tâm mình xuống không cho nó nhớ nghĩ điều gì, chính khi ấy khiến cho niệm bặt đi, nếu khiến cho niệm bặt là pháp phược. Pháp phược là bị pháp trói. Nghe nói tâm mình thanh tịnh không động, chúng ta cứ đè cho nó thanh tịnh, không động thì đó là bị pháp trói, đó là biên kiến chớ chưa phải thấy đạo. Đoạn này phải hiểu kỹ để quí vị khỏi đâm ra nghi ngờ. Vậy Lục Tổ cho nghĩ hay không cho nghĩ? Như ngồi suy nghĩ ông A sớm mai nói cái gì, cô B ban chiều nói điều gì, nghĩ việc này việc kia v.v... cho là đúng. Chỗ này tôi thấy dễ bị lầm lắm. Tổ bảo trăm vật không nghĩ tức đè cho niệm bặt đó là biên kiến. Như vậy chúng ta tu thế nào để không phải là biên kiến? Tức là phải tu “vô niệm” như Ngài dạy, nghĩa là thấy nghe tất cả mà không dính không mắc với tất cả. Có người khi ngồi thiền nghe tiếng nói bên ngoài họ sợ lắm, cho rằng nghe tiếng là động, thấy bóng người đi qua cũng sợ, họ cố đừng nghe đừng thấy để đè tâm xuống, như vậy là biên kiến. Còn chúng ta ngồi thiền thì cứ ngồi, người ta nói chúng ta cũng nghe, nhưng không suy nghĩ xem người đó nói cái gì, khen ai, chê ai... nghe thì biết mình đang nghe. Có ai đi tới cũng thấy và biết mình đang thấy, chớ không có cái “không biết”. Thành ra hai việc khác nhau, tôi nói cho quí vị đừng lầm. Nếu ngồi thiền mà sợ tiếng, sợ thấy, sợ tất cả, chỉ đè tâm mình xuống cho nó lặng, như vậy chỉ có một cách đè thôi, nên không có cái giác. Trái lại chúng ta ngồi thiền mà hằng giác, tai nghe, mắt thấy, tất cả cơ quan đều có cảm giác, nhưng không chạy theo trần cảnh bên ngoài. Người ta nói cái gì mình cũng nghe, biết mà không chạy theo, suy nghĩ thêm cái đó hay dở ra sao, như vậy không phải là trăm vật không nghĩ. Chỗ này rất tế nhị và đa số người tu hay bị kẹt trong hai trạng thái: hoặc là không nghĩ tức là đè, hoặc là nghĩ tức là suy nghĩ đủ thứ... Chúng ta thường bị kẹt vào một trong hai điều đó, chớ không chịu ở khoảng giữa như Lục Tổ dạy. Chỗ Lục Tổ dạy là thấy nghe đều biết mà không chạy theo, nghe nói vẫn biết câu nói đó thế nào, người nói là nam hay nữ, biết rõ ràng nhưng không thêm cái gì trong câu đó; thấy người đi biết người, thấy vật biết vật, thấy cái gì biết cái ấy nhưng không thêm điều gì trong cái thấy đó. Như vậy ngồi thiền vẫn tỉnh, vẫn sáng không có đè; hằng thấy hằng biết nên là tỉnh, vì tỉnh nên với tâm đó mình không bao giờ mất. Nếu chúng ta chỉ đè cho nó lặng xuống thì một lúc coi như cây khô; nếu nó lặng được như cây khô là vô tri vì không nghe, không thấy, không biết gì cả, như ngồi chết khô. Cái đó là một sức mạnh nhưng chính là định của Tiểu thừa, thường trong kinh Đại thừa Phật quở là trầm không trệ tịch. Còn cái định của Thiền tông, định mà như không định. Người ta nói mình nghe rõ ràng, nói tiếng nào mình biết tiếng ấy, người ta đi tới đi lui mình thấy rõ ràng nhưng không chạy theo, đó là định. Bởi vì tâm không dấy khởi, đó là định, không dấy khởi mà hằng tri hằng giác, đó mới là quí. Chỗ mà Lục Tổ dạy đây là sáu căn tiếp xúc với sáu trần, sáu thức vẫn ra tiếp nhưng không dính, không mắc với sáu trần, đó là định, đó là vô niệm, chớ không phải đè là vô niệm. Vì vậy nếu tu theo Lục Tổ thì ít có dịp ngồi thiền lắm. Khi Lục Tổ còn ở đời, có lần thấy một ông Tăng ngồi thiền nơi hành lang, Ngài đến kê miệng vào tai thổi phèo một cái; lại một lần khác Ngài thấy một vị Tăng ngồi thiền ở một góc vườn, Ngài cầm gậy đập. Nhưng sau này các Tổ thấy chúng ta không thực hành nổi lời dạy của Lục Tổ, sáu căn của chúng ta vừa tiếp xúc thì nó chạy ra hòa với sáu trần rồi, nó dẫn chúng ta chạy mãi nên chư Tổ bắt ngồi lại cho đỡ một chút. Nhưng việc ngồi của chúng ta khác hơn, là khi ngồi không có đè, cũng không bặt hết không biết gì, mà là hằng biết tất cả vật nhưng không chạy theo, nghĩa là kia nói “bách vật bất tư” còn chúng ta “bách vật hằng tri” nhưng không chạy theo vật nào cả, như thế mới đúng với lời dạy của Lục Tổ. Hiểu như thế, chúng ta mới thấy Lục Tổ chỉ phương pháp tu rất là đơn giản, rất là thẳng tắt, đường lối của Lục Tổ là ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta hằng hoạt động mà hằng tu, chớ không phải ngồi một chỗ mới tu. Sáu căn tiếp xúc sáu trần, sáu thức vẫn ra nhưng không bị dính, bị kẹt, đó là thông suốt, mà thông suốt như vậy gọi là vô niệm hạnh. Này Thiện tri thức, người ngộ được pháp vô niệm thì muôn pháp đều thông, người ngộ được pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật, người ngộ được pháp vô niệm thì đến địa vị Phật. Trong đoạn này Tổ khen ngợi pháp môn vô niệm. Người ngộ được pháp môn vô niệm thì muôn pháp đều thông, nghĩa là pháp nào cũng thấu suốt được. Vậy muốn đến địa vị Phật, muốn thấy được cảnh giới Phật và muốn thông được tất cả pháp thì phải tu vô niệm. Vô niệm là gì? Đoạn trước đã giảng vô niệm là đối với tất cả cảnh, tất cả xứ, trong tất cả thời mà không dính mắc. Vô niệm là như vậy và người được như thế là thông tất cả pháp, là thấy được cảnh giới Phật, là đến được quả vị Phật. Như vậy quí vị thấy thành Phật hình như không khó. Bởi vì đối với tất cả cảnh mình không dính mắc là được, nhưng không hiểu tại sao chúng ta không chịu như thế, mà cứ dính mắc hoài! Đâu cần thêm điều gì, chỉ đừng dính, đừng mắc là được. Vì vậy khó là tại chúng ta dính mắc, chớ nếu y lời Tổ dạy, gặp tất cả cảnh mà không dính mắc thì cảnh giới Phật đâu còn khó đối với mình. Này Thiện tri thức, đời sau người được pháp của ta, đem pháp môn đốn giáo này, đối với hàng người đồng kiến đồng hành phát nguyện thọ trì như là thờ Phật. Ngài nói thêm cho chúng ta biết về sau những người được pháp môn đốn giáo này tức là pháp môn vô niệm do Tổ dạy, nên đem pháp môn ấy đối với người mà truyền bá, đối với người đồng tu hành và phát nguyện thọ trì pháp môn đốn giáo này, những người truyền pháp môn đốn giáo này thì mình thờ kính như là thờ kính Phật. Cố gắng tu thân không dám lui sụt thì quyết định vào quả vị Thánh; nhưng phải truyền trao, từ trước đến giờ, thầm truyền trao phó chớ không được giấu kín chánh pháp. Ngài bảo tất cả chúng ta khi nhận hiểu được pháp môn đốn giáo này rồi, phải y theo sự truyền thừa của các bậc tiền bối mà truyền lại cho kẻ hậu lai, không được ẩn giấu pháp môn này. Nếu không phải là hàng đồng kiến đồng hành, ở trong pháp môn khác thì không được truyền trao, e tổn tiền nhân kia, cứu kính vô ích, sợ người ngu không hiểu, chê bai pháp môn này rồi trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật. Đoạn trước nói gặp người đồng kiến đồng hành, đây nói trường hợp không phải đồng kiến đồng hành. Chữ tiền nhân kia, ở đây có hai ý: tiền nhân là người trước, người hiện đối mặt với mình cũng là người trước, hoặc người thuộc quá khứ cũng là người trước, trong đoạn này cả hai đều có nghĩa. Đối với người trước như bậc Tôn túc của chúng ta chỉ cho chúng ta pháp môn đốn giáo, pháp đó cao, nay chúng ta đem chánh pháp cao quí như vậy dạy người trình độ thấp quá, không hợp nên họ khinh lờn, như vậy là làm cho giá trị người trước bị tổn giảm, đó là tại chúng ta sai. Đối với người đối diện mình, nếu họ không hiểu nổi pháp môn đốn giáo, tỉ dụ họ chỉ cần thầy dạy tu thế nào để đời sau họ sung sướng hơn đời này, mà chúng ta dạy việc giải thoát, pháp vô niệm thì họ không hiểu gì cả. Như vậy không có lợi cho họ, không đúng điều họ muốn, dĩ nhiên họ đâm ra chán khinh pháp cao cả của Phật Tổ, khinh pháp là có tội cũng là tổn giảm cho họ. Thế nên cả hai đều có tổn giảm. Nhưng ở đây chữ tiền nhân chỉ cho người đối diện nhiều hơn, vì những câu sau Ngài nói “cứu kính vô ích” nghĩa là chúng ta trao pháp cho họ rồi làm tổn hại tiền nhân kia, cứu kính là vô ích. “Sợ người ngu không hiểu, chê bai pháp môn này rồi trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật.” Như vậy hình như nhắm vào người đối diện nhiều hơn. Vì e họ không hiểu rồi khinh chê làm cho trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật. Tại sao? Ngay nơi tâm mình tức là Phật, mê là chúng sanh, ngộ là Phật, nay không hiểu, chê pháp đó là sai thì chừng nào họ tìm ra Phật? Ngay nơi tâm mình đã có Phật mà không chấp nhận thì bao giờ tìm ra Phật? Thế nên đó là làm cho họ trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật. Này Thiện tri thức, tôi có một bài tụng Vô tướng, mỗi người phải tụng lấy, người tại gia, người xuất gia chỉ y đây mà tu, nếu không tự tu, chỉ ghi nhớ lời của tôi thì cũng không có ích gì. Nghe tôi tụng đây. Tổ dạy chung không dạy riêng cho giới nào. Tại gia hay xuất gia, nếu hiểu được, y như vậy tu đều có lợi, chớ đừng nhớ lời dạy, nhớ suông không có ích gì. Nhưng đa số chúng ta hiện nay hay thuộc lòng, nghe Tổ nói bài tụng hay quá, cứ học thuộc làu mà không chịu tu gì cả. Tiếp theo giải thích từng đoạn bốn câu của bài tụng: Thuyết thông cập tâm thông, Thuyết là chỉ cho giáo lý, tâm chỉ cho Thiền. Mở đầu bài tụng Ngài bảo: Người học đạo nếu thông cả hai mặt thuyết và tâm thì chẳng khác nào mặt trời ở giữa hư không. Ngôn ngữ thông, Tâm thể cũng thấy được, thì người đó như mặt trời ở giữa hư không, rọi sáng khắp mọi nơi. Chỉ truyền pháp kiến tánh, ra đời phá tà tông. Chủ yếu của Lục Tổ là truyền pháp thấy tánh (kiến tánh thành Phật), pháp đó ra đời để phá những tông tà lệch. Như vậy là nói lập trường, chủ trương của Ngài, nghĩa là bao nhiêu pháp Ngài chỉ dạy nhắm thẳng chỗ kiến tánh, nếu không kiến tánh thì chưa đúng chỗ Ngài muốn dạy, kiến tánh tức là nhận ra mình có Bản tánh. Pháp tức vô đốn tiệm, Ngài bảo pháp không chia là đốn hay tiệm, pháp chỉ như vậy, nhưng đốn tiệm là tùy theo căn cơ của người. Vì có người mê, có người ngộ nên có mau, có chậm; mau gọi là đốn, chậm gọi là tiệm. Sở dĩ pháp thành đốn tiệm là tùy căn cơ mê ngộ của người. Nhưng pháp kiến tánh này người ngu không thể hiểu. Tại sao? Bởi vì chỉ thẳng Bản tánh cho họ, nếu họ mê không nhận thì làm sao hiểu được. Thế nên phải nhận ra được Bản tánh mình mới hiểu được pháp của Tổ dạy. Thuyết tức tuy vạn ban, Nói tuy có muôn thứ nhưng hợp với lý, trở về lý thì chỉ có một. Ở trong nhà tối phiền não, thường phải sanh mặt trời trí tuệ. Ngài nói về danh ngôn thì có muôn thứ, nhưng về lý thật thì chỉ có một, chớ không có nhiều. Dụ như hiện nay chúng ta học nào là Chân tâm, Phật tánh, nào là Niết-bàn, Chân như v.v... tên thì cả trăm, nhưng về lý thì chỉ một sự thật đó thôi, chớ không có cái khác. Vì tùy chỗ mà đặt tên nên kinh luận đặt rất nhiều tên gọi là thuyết, tức là trên danh ngôn, chớ đến chỗ chân thật chỉ có một, nên nói lý thì trở về một. Điểm quan trọng nhất là ngay trong nhà tối phiền não, chúng ta phải làm sao cho mặt trời trí tuệ xuất hiện. Đó mới là việc quan trọng trong sự tu hành. Hiện nay nhà chúng ta tối hay sáng? Tối thì phải cho mặt trời trí tuệ mọc lên sẽ hết tối, chớ không có gì khác. Tà lai phiền não chí, Tà đến thì phiền não theo đó sanh, chánh đến thì phiền não hết. Tại sao tà lai phiền não chí? Ví như trước mặt chúng ta có người để một vật quí, xong họ đi vắng. Nếu khi ấy chúng ta dấy niệm tà thì thế nào? Bao nhiêu phiền não từ đó sanh. Nếu cũng vật đó, người chủ vắng mặt, nhưng chúng ta có niệm chánh thì phiền não hết. Như chúng ta vừa có niệm tà, muốn có vật quí ấy thì phiền não dấy lên; nếu niệm chánh đến, chúng ta tự trách sao mình lại xấu như vậy thì bao nhiêu phiền não cũng theo đó hết. Như vậy chỉ có một niệm thôi, nhưng sai đi thì bao nhiêu phiền não dẫn đến. Thế nên trong kinh thường nói “nhất ba tài động vạn ba tùy”, tức là một lượn sóng vừa nổi lên, muôn lượn sóng kéo theo. Cũng thế, một niệm sai thì bao nhiêu niệm khác dẫn, cho nên vừa có một niệm sai là phải dẹp và phiền não cũng theo đó dứt, như vậy là lấy chánh độ tà. Trong tương đối phải như thế, nhưng đến chỗ cứu kính thì sao? Cả tà lẫn chánh đều không dùng, mới hoàn toàn thanh tịnh không còn thừa gì nữa cả. Vậy là tu từ cái đối đãi, lần lần đến chỗ vượt khỏi đối đãi. Hiện nay chúng ta trong giai đoạn đầu khéo ứng dụng cái đối đãi mà tu, rồi lần lần sẽ đi tới chỗ hết đối đãi. Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng ta tu từ cái đối đãi, khéo tu thì phiền não hết, rồi cả hai bên tà chánh đều buông thì lúc đó mới là hoàn toàn thanh tịnh. Bồ-đề bản Tự tánh, Bồ-đề là giác, cái giác đó ở đâu? Vốn là Tự tánh của mình. Giác vốn không phải cái gì xa, mà ngay nơi Tự tánh của chúng ta, cho nên kiến tánh là thấy Bồ-đề, là giác. Khởi tâm tức là vọng. Như vậy Tự tánh hằng tri hằng giác là Bồ-đề, vừa dấy niệm lên là vọng. Tâm tịnh ở trong vọng, chỉ ngay đó mà chánh lại thì không có ba chướng. Ba chướng là gì? Là nghiệp chướng, phiền não chướng, báo chướng. Nghiệp chướng là những thói quen, việc làm của mình. Thí dụ như chúng ta quen hút thuốc, ngày nào không có thuốc thì ngáp tới ngáp lui đó là nghiệp chướng, vì cái nghiệp quen hút thuốc nay thiếu, nó sanh chướng làm phiền mình. Đó là nói nghiệp nhỏ, nghiệp lớn cũng vậy. Phiền não chướng tức tham sân si. Báo chướng tức là thân bệnh hoạn, muốn tu, muốn làm lành làm công đức, nhưng cứ bệnh mãi nên tu không được. Đa số người tu hiện nay bị ba chướng làm khổ sở làm trở ngại, có người thì bị nghiệp chướng thói quen dẫn chạy hoài, dừng không nổi; có người bị phiền não chướng, mỗi lần nghe người nói thế này, thế kia là nổi sân lên; có người không có hai chướng trên nhưng thân cứ đau mãi. Nay muốn hết ba chướng, phải làm sao? Phải ngay trong vọng mà tâm mình thanh tịnh thì ba chướng hết, nghĩa là những vọng tưởng lặng, tâm thanh tịnh hiện thì chướng dứt. Vì sống với tâm thanh tịnh thì không có báo chướng, cũng không có nghiệp chướng, cũng không cả phiền não chướng. Trái lại sống với thân này là bị báo chướng, nghiệp chướng... Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng ta biết rõ Bản tánh mình là Bồ-đề, Bản tánh mình là cái hằng tri hằng giác sẵn có. Chưa dấy niệm thì Bản tánh đó là Bồ-đề, vừa dấy niệm là vọng, vọng lặng, tâm thanh tịnh thì thoát khỏi ba chướng. Thật dễ dàng như vậy đó! Thế nhân nhược tu đạo, Người đời nếu muốn tu hành thì tất cả trọn không có chướng ngại. Ai tu cũng được cả, nhưng muốn tu hành cho dễ, trước thường tự thấy lỗi mình. Nếu thường thấy lỗi của mình tức là hợp với đạo. Trên thế gian này ai cũng tu được cả, không có lựa người nào, nhưng muốn tu cho gần với đạo là phải thường thấy lỗi của mình. Thí dụ như đang đi, vừa khởi một niệm gì liền biết niệm là sai, dừng nó lại, thường thấy như vậy là cùng đạo tương đương. Trái lại, thì cùng đạo không tương đương. Sắc loại tự hữu đạo, Các loại có hình sắc tự có đạo, mỗi cái không phòng não nhau, không làm chướng ngại nhau, nếu lìa đạo riêng tìm đạo, tức lìa sắc loại v.v... tìm đạo thì trọn đời không bao giờ thấy đạo. Tại sao sắc có đạo? Thí dụ như cái đồng hồ này có đạo không? Nếu thấy đồng hồ mà chúng ta không dấy niệm gì cả thì có đạo, còn nếu thấy đồng hồ mà sanh niệm xấu tốt thì không có đạo. Như vậy trên thế gian này tất cả hình sắc đều không có gì chướng ngại, không có lỗi lầm, chỉ tại tâm chúng ta chạy theo cảnh nên thành chướng ngại, thành lỗi lầm. Nếu tâm không theo cảnh thì cảnh đâu có lỗi lầm gì, khi ấy thấy cái gì cũng là thấy đạo cả, cho nên gọi là “Kiến sắc minh tâm”, thấy sắc biết là mình có cái hay thấy tức nhiên là thấy đạo rồi! Như vậy cái gì không phải đạo? Đâu phải thấy đạo là không thấy gì cả, nhà cửa cây cối người vật đều là hiện tướng của đạo, nếu tâm mình thấy mà không dính không mắc. Trái lại nếu tâm mình dính mắc thì đó là chướng ngại, chớ không phải là đạo. Thế nên, nói tất cả sắc loại đều là đạo. Chúng ta thường nói: Thế gian này trần tục lắm, cái gì cũng không có đạo lý hết, khó tu lắm! Phải đi đâu tu mới hết thấy người, thấy cảnh? Lên trên núi ở một mình nhưng hết gạo cũng phải xuống núi gặp người thế gian, quần áo rách rưới cũng phải xuống thế gian... như vậy trốn ở đâu bây giờ? Sao bằng ngay trong thế gian này chúng ta thấy tất cả đều là đạo, như thế mới tu được, chớ trốn tất cả cảnh để cầu đạo thì khi nào được? Vì thế Tổ bảo: ly đạo biệt mích đạo, chung thân bất kiến đạo, tức là lìa đạo, lìa cái hiện hữu ở đây đi tìm đạo nơi nào khác thì trọn đời không bao giờ thấy đạo. Có nhiều người tu không bao giờ hài lòng, ở thành thị thì nói thành thị ồn quá, muốn đến thôn quê ở, về thôn quê cũng thấy những cái phiền của thôn quê, muốn vào trong núi cũng gặp những cái phiền của núi... Sự thật đi suốt kiếp cũng không có chỗ nào như ý mình được, vì mỗi chỗ có cái phiền khác nhau, chỉ là ngay đó chúng ta đừng dính đừng kẹt thì đó là đạo, đạo ngay trong thế gian. Ba ba độ nhất sanh, “Ba ba độ nhất sanh” tức là lăng xăng qua một đời, nay ở chỗ này, mai dời chỗ kia, trọn một đời chưa tìm được chỗ ở. “Đáo đầu hoàn tự áo” là rốt cuộc rồi cũng tự phiền, tự buồn, không hài lòng. Muốn thấy đạo chân thật, hạnh chánh đó là đạo rồi, chớ không tìm đâu cả, nghĩa là trong mọi cảnh chúng ta đừng dính mắc bên này bên kia thì đó là đạo. Ngay cái chánh này là đừng dính mắc hai bên có không, phải quấy, tốt xấu, thì ngay đó là đạo. Trái lại nếu chúng ta còn có tâm niệm dính mắc, dù chạy vào rừng hay lên núi lên non cũng không bao giờ thấy đạo. Như vậy là quá rõ! Chúng ta phải biết như vậy mà tu. Có những người cứ lăng xăng nay chỗ này mai nơi kia để tìm đạo, rốt cuộc làm gì có đạo. Thế nên Ngài dạy lăng xăng qua một đời, cuối cùng rồi tự phiền muộn; muốn thấy đạo chân thật không gì hơn là hạnh đúng đắn tức là hạnh không kẹt vào bên này hoặc bên kia thì đạo hiện tiền. Tự nhược vô đạo tâm, Ám hạnh tức là hạnh mờ tối. Tổ dạy vì trong tâm mình không có đạo nên hạnh mình mờ tối, do đó không thấy đạo. Nếu người chân chánh tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Trong đoạn trước Ngài bảo người nào không thấy lỗi của kẻ khác thì người đó gần với đạo, tương đương với đạo. Trong đoạn này Ngài nhắc người chân chánh tu hành là không thấy lỗi thế gian. Còn chúng ta hiện nay thế nào? - Thấy lỗi người nhiều quá! Ở chung năm, ba chị em thì chị nào cũng có lỗi cả. Ngồi lại nói chuyện với người khác thì chị số một lỗi này, chị số hai lỗi kia, chị số ba lỗi nọ... chỉ có mình là không kể lỗi. Vì thấy lỗi thế gian nhiều quá nên không làm sao gần đạo được. Thế nên Ngài dạy người tu hành chân chánh phải không thấy lỗi của thế gian. Nhược kiến tha nhân phi, Trong đoạn này Ngài chỉ thẳng cho chúng ta thấy căn bản của sự tu hành. Nếu thấy lỗi của người khác thì lỗi của chính mình đã tới bên tả, tức là bên cạnh rồi. Người khác quấy, ta chẳng quấy, ta quấy tự nhiên ta có lỗi. Nếu cứ thấy lỗi người này người kia, đến đâu cũng kể lỗi người tức mình đã có lỗi, lỗi của mình đã sờ sờ đó rồi! Điều đó dễ hiểu lắm. Người lỗi ta chẳng lỗi, ta quấy tự ta có lỗi. Tại sao người lỗi mà ta không lỗi? Tức là người đó có cái dở, nhưng là chuyện của họ, chúng ta đừng can thiệp vào, như vậy họ có lỗi mà ta không lỗi. Tại sao cả ngày chúng ta cứ làm việc thiên hạ, đi xóm này nói chuyện của xóm kia, đi xóm kia nói chuyện của xóm này. Chúng ta không tự thấy lỗi mà cứ thấy lỗi của người, rồi chen vào việc của họ, nếu chúng ta chen vào lỗi của người thì ta thành có lỗi. Nếu chúng ta có lỗi thì tự thấy rồi tự sửa, tại sao chỉ thấy lỗi của người rồi đem mách người này người kia chi cho thêm phiền, cho thành lỗi? Thật ra hầu hết chúng ta đều có bệnh hay đem chuyện người ra nói, còn chuyện của mình, điều hay thì nói, điều dở thì giấu kín, từ đó sanh ra tự cao. Vì thấy người có lỗi nên ai cũng thua mình, còn lỗi mình thì giấu mất nên thấy mình cao hơn thiên hạ, đó là ngã mạn. Trái lại, chúng ta thấy lỗi mình thì đâu có tự cao, đâu dám tự xưng ta hơn người; không thấy lỗi người thì đâu dám xem người thấp, đâu biết ai dở mà dám khi, như vậy ngã mạn theo đó hết. Việc tu hành tế nhị như vậy, nếu thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình thì sanh ngã mạn, đó là bệnh làm cho người tu bị chướng ngại. Đãn tự khước phi tâm, Tổ nói thật là dễ dàng, chỉ tự mình dẹp lỗi nơi tâm mình, trừ hết các phiền não, yêu ghét đều không bận lòng thì duỗi thẳng hai chân ngủ. Thương ghét không có bận lòng thì duỗi thẳng hai chân ngủ khò! Chúng ta ngủ không được là tại còn thương ghét. Người thương mà xa thì nhớ ngủ không được, người ghét mà gần cũng tức ngủ không được. Như vậy hai việc làm cho chúng ta ăn không ngon, ngủ không yên là thương và ghét, nay thương ghét không bận lòng thì duỗi chân ngủ. Đức Phật cũng đã dạy người nào không bận đến chuyện thương ghét, hơn thua thì người đó ngủ ngon. Đoạn này Tổ cũng nói như vậy, ai mà yêu ghét không bận trong lòng thì duỗi thẳng hai chân nằm ngủ. Người đến giờ ngủ, duỗi chân ngủ khò, đó là người sung sướng. Chắc ai cũng muốn vậy mà làm không được là vì bỏ hai điều thương ghét chưa được, bỏ không được nên ngủ hết ngon! Đó là sự thật trăm phần trăm. Dục nghĩ hóa tha nhân, Tiếp theo Ngài dạy muốn lợi tha, muốn nghĩ giáo hóa người khác thì tự mình phải có phương tiện, tức là mình phải thông phải hiểu, như đoạn trước nói thuyết thông, tâm thông, đó là phương tiện đầu. Muốn giáo hóa người mà mình chưa có gì cả thì dạy người điều gì? Nhiều khi dạy không đúng khiến người đi quàng trong lùm bụi càng khổ hơn, cho nên muốn giáo hóa người thì trước chúng ta phải có phương tiện, chớ khiến người kia còn nghi ngờ. Dạy là để giải quyết nghi ngờ cho người thấy đạo, nếu chúng ta dạy mà người càng nghi, không biết thầy dạy có đúng lời Phật dạy không, thử hỏi dạy làm gì? Nếu họ không còn nghi tức là Tự tánh hiện. Chúng ta dạy cho họ hết nghi ngờ, tâm không còn thắc mắc băn khoăn thì phiền não lặng, phiền não lặng thì Tự tánh hiện, đó là căn bản giáo hóa. Bốn câu kệ tiếp theo đây, hầu hết người đọc kinh Pháp Bảo Đàn đều thuộc. Phật pháp tại thế gian, Phật pháp ở ngay nơi thế gian này, chớ không ở đâu xa lạ. Không thể lìa thế gian mà có sự giác ngộ. Đức Phật giác ngộ ngay nơi thân này, cảnh này. Vậy thì chúng ta giác ngộ cũng là giác ngộ ngay thân cảnh này. Tỉ dụ như ngay trong thân này chúng ta biết cái nào là giả, cái nào là thật, thấy được Chân tánh của mình thì đó là giác ngộ. Ngay nơi cảnh này chúng ta biết cái gì là tướng duyên hợp, biết rõ nó thì đó là giác. Như vậy là giác trên cảnh hiện tại, ngay nơi thân hiện tại. Thế nên nói: Không lìa thế gian mà có giác ngộ, nếu lìa thế gian mà tìm Bồ-đề (tức là cầu giác ngộ) giống như chúng ta tìm cái sừng của con thỏ. Tìm chừng nào được? Chính đoạn này nói lên tinh thần thực tế của Lục Tổ, Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ sự thật là như thế. Không phải chỉ Lục Tổ mà chư Tổ và cả đức Phật cũng là giác ngộ ngay nơi cảnh thế gian, vì thế bao nhiêu lời dạy của Phật, bao nhiêu kinh điển cũng chỉ thẳng cho chúng ta thấy được lẽ thật của cảnh thế gian này. Nếu bỏ thế gian mà tìm giác ngộ thì đó là chuyện xa xôi, vô nghĩa. Như vậy chủ yếu chúng ta muốn giác ngộ là phải giác ngộ ngay nơi thế gian. Chánh kiến danh xuất thế, Chánh kiến gọi là xuất thế, tà kiến gọi là thế gian. Tại sao? Tà kiến là thấy lệch tức là hiểu lệch, kẹt vào hai bên, hoặc là chấp có chấp không, hoặc là chấp phải chấp quấy... Chấp lệch một bên là thế gian. Chánh kiến tức là thấy đúng, thấy không kẹt vào hai bên, đó là xuất thế. Cả hai “chánh” và “tà” đều dẹp hết thì tánh Bồ-đề hiện rõ ràng không nghi ngờ. Trong những đoạn trước Ngài nói yêu ghét không bận lòng thì ngủ ngon, hoặc tà chánh đều không dùng thì thanh tịnh đến vô dư. Trong đoạn này Ngài lặp lại một lần nữa: Cả hai “tà, chánh” đều dẹp thì tánh Bồ-đề sáng rỡ. Như vậy chúng ta thấy cốt yếu muốn tánh Bồ-đề hiện thì đừng kẹt hai bên, chớ không có gì lạ. Thử tụng thị đốn giáo, Bài tụng này gọi là đốn giáo, cũng gọi là thuyền đại pháp, thuyền pháp lớn. Người mê nghe thì trải qua nhiều kiếp, còn người ngộ nghe thì chỉ trong khoảng sát-na liền ngộ. Tóm lại trong bài tụng này Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết rõ đâu là mê, đâu là ngộ. Tôi giản trạch chủ yếu Ngài dạy chúng ta tu hành là đừng kẹt ở hai bên. Giai đoạn đầu khi tu phải giữ cái chánh bỏ cái tà, tà đến thì dẹp, chánh đến thì giữ, dùng chánh phá tà, khi tà hết rồi thì cái chánh cũng phải buông, tà chánh đều không dùng thì đến chỗ thanh tịnh. Thứ hai là phải thấy mình chớ đừng thấy người. Thấy lỗi mình nghĩa là thấy từ vọng tưởng cho đến hành động, ngôn ngữ, điều gì sơ sót mình phải sửa. Tu là sửa, nếu không thấy lỗi thì làm sao sửa? Thế nên từ tâm niệm đến thân miệng, thấy được điều gì sai, điều gì lỗi thì sửa, đó là tu. Trái lại thấy người mà không thấy mình, đó là lỗi, đó là tạo nghiệp. Vì vậy muốn gần với đạo, người tu phải hằng thấy mình, đúng tinh thần nhà Thiền gọi là phản quan tự kỷ. Phản quan tức là soi lại, tự kỷ là chính mình, hằng soi lại chính mình, nhờ soi lại mới thấy mình lỗi, đó là tu. Chúng ta có tật là hay soi ra ngoài, con mắt luôn nhìn ra, vì thế chỉ thấy người khác mà không thấy mình. Nay phải nhìn trở vào, soi trở lại mình để thấy từng hành động, từng tâm niệm, thấy như vậy mới tu được, còn nếu chỉ thấy người là tu không được. Thế nên người tu Thiền là phải phản quan, đó là gốc của sự tu hành. Người nào thấy được mình thì cùng với đạo tương đương, tức là gần với đạo. Điểm thứ ba, Ngài dạy chúng ta tu thì phải hằng dùng tâm chân chánh dẹp bỏ những tâm tà vạy, nhất là làm sao dứt sạch các thứ phiền não. Muốn dẹp sạch phiền não thì đừng bận lòng về sự yêu ghét. Yêu ghét không bận lòng thì phiền não theo đó dứt, trái lại nếu bận lòng về yêu ghét thì phiền não không dứt. Điểm thứ tư, Ngài chỉ thẳng cho chúng ta thấy tu là tu ngay trong thế gian này chớ không phải ở nơi nào khác. Ngay trên thế gian mà tỉnh giác đó là tu, nếu bỏ thế gian để tìm nơi huyền bí nào, bỏ thế gian để cầu giác ngộ (thí dụ như xuất hồn vào trong hư không để tìm đạo) thì đối với Tổ cũng như tìm lông rùa, sừng thỏ. Phải ngay thế gian mà giác chớ đừng tìm cầu ở đâu xa. Chúng ta thấy bài tụng tuy dài nhưng có thể tóm lại mấy điểm chánh yếu để làm then chốt cho sự tu hành. Nếu chúng ta hằng thấy hằng biết như vậy là chúng ta hằng tu, quí vị nhớ kỹ biết như vậy là tu, chớ không phải thuộc lòng bài tụng này là tu. Tôi nhắc lại một lần nữa: Yếu chỉ của Ngài dạy chúng ta là đừng thấy lỗi người mà phải thấy lỗi mình (điểm này tuy ở giữa nhưng đúng ra phải ở đầu) vì thấy như vậy rất cần thiết cho sự tu, kế đó phải bỏ hai bên, tà chánh đều buông, tiếp đến cả tắng ái cũng phải dẹp, sau cùng thấy rõ thế gian là đạo, chớ không phải tìm đạo ở ngoài thế gian. Tổ lại bảo: “Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp đốn giáo này, khắp nguyện cả pháp giới chúng sanh ngay lời nói này đều được thấy tánh thành Phật.” Khi ấy Vi sử quân cùng quan liêu đạo tục nghe Tổ nói, không ai mà chẳng tỉnh ngộ, đồng thời làm lễ đều tán thán: “Lành thay! Đâu ngờ ở Lãnh Nam có Phật ra đời!” Mọi người đều hoan hỉ tán thán: Đâu ngờ ở Lãnh Nam có Phật ra đời. Vì những lời Tổ nói giống như lời Phật dạy nên khen Ngài cũng như là Phật vậy. Tất cả không ai mà chẳng tỉnh ngộ, quí vị nghe có tỉnh chưa? Điều đó là cần đấy! Phải ráng tỉnh! (1) Có quyển khác ghi là “kháp như tầm thố giác”. Mục Lục
|
Kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải
|
Phẩm 2 BÁT-NHÃ (Giảng 3)