Kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải
Phẩm 10 PHÓ CHÚC (Giảng 2)
Vào niên hiệu Thái Cực năm Nhâm Tý, Diên Hòa tháng bảy (712 DL), Tổ sai đệ tử đến Tân Châu, chùa Quốc Ân dựng tháp và khiến thợ khởi công gấp, năm kế cuối mùa Hạ lạc thành, ngày mùng một tháng bảy Tổ họp đồ chúng bảo rằng: Tôi đến tháng tám muốn lìa thế gian, các ông có nghi phải hỏi nhau sớm, tôi vì các ông phá nghi khiến các ông dứt mê, nếu tôi đi rồi, sau không có người dạy các ông. Ngài Pháp Hải v.v... nghe Tổ nói thảy đều rơi lệ. Nghe Tổ từ biệt bảo rằng Tổ sắp đi, trong chúng có điều gì nghi nên đưa ra hỏi, Tổ giải nghi cho để khi Tổ đi rồi không có ai chỉ dạy, các đệ tử lớn như ngài Pháp Hải v.v... đều khóc. Chỉ có Thần Hội thần tình bất động, cũng không có khóc. Tổ bảo: Thần Hội tiểu sư lại được thiện bất thiện cùng là đồng, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, ngoài ra đều không được, ở trong núi mấy năm, cứu kính tu đạo gì? Nay các ông buồn khóc là vì lo cho ai? Nếu lo ta chẳng biết chỗ đi thì ta tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì trọn không báo trước cho các ông, các ông buồn khóc bởi vì chẳng biết chỗ đi của ta, nếu biết chỗ đi của ta tức không nên buồn khóc. Pháp tánh vốn không sanh diệt đi lại, các ông ngồi đây ta sẽ vì các ông nói một bài kệ gọi là “Chân giả động tịnh kệ”. Các ông tụng bài này cùng với ta ý đồng, y đây mà tu hành thì không mất tông chỉ. Đây là đoạn Tổ từ giã đệ tử, những vị trưởng thượng trong chúng đều khóc, duy có ngài Thần Hội, mới mười mấy tuổi nhưng không khóc nên Tổ khen Thần Hội là tiểu sư mà thần tình bất động, còn các vị khác ở núi bao nhiêu năm, rốt ráo tu đạo gì mà vừa nghe Tổ từ giã liền khóc. Tổ đặt câu hỏi: “Các ông khóc là lo cho ai mà khóc, lo cho ta không biết chỗ đi phải không? Nếu không biết chỗ đi sao lại báo trước cho các ông.” Báo trước là biết sẵn chỗ đi rồi. “Hoặc các ông khóc vì không biết chỗ ta đi, nếu biết chỗ ta đi thì các ông không khóc nữa.” Tại sao? Đâu phải Tổ đi đến chỗ buồn thảm khổ đau mà khóc, biết được chỗ đó, tức chỗ đi của Tổ là chỗ an nhàn thảnh thơi thì khóc làm chi. Như vậy là khóc cho ai? Khóc cho người ở lại phải không? Nói đi nói lại quanh quẩn cũng là vì bản ngã. Nếu khi Tổ đi, nghi không biết Tổ đi đâu, e lang thang tội nghiệp thì nên khóc! Nhưng Tổ biết chỗ đi nên mới báo trước ngày đi, biết chắc thì đâu có lang thang mà sợ, như vậy khóc đó không phải vì Tổ. Tổ muốn chỉ cho chúng ta biết sở dĩ chúng ta buồn khổ khi sắp chết vì đường trước mờ mờ không biết đi đâu, nên người gần chết cũng khóc mà người nhìn thấy người sắp chết cũng khóc theo, cả hai đều khóc. Tại sao? Người gần chết khóc là vì không biết thân phận mình ra sao nên hoang mang sợ sệt, khóc nhìn người ở lại vì đi một mình buồn quá; người ở lại cũng khóc là vì người thân đi rồi không còn ai lo cho mình, rốt cuộc người nào cũng khổ, khổ vì bản ngã thôi chớ không vì cái gì khác. Vì thế Tổ mới bảo nếu biết được chỗ mình đến thì có gì sợ mà phải khóc, nếu người khác biết rõ chỗ đến của mình, người đó cũng không khóc. Thế nên chúng ta tu làm sao mà đến khi sắp ra đi, mình biết rõ chỗ mình đến, khi đó mình an nhiên, không buồn lo chi cả, chớ đến khi sắp đi mà không biết đi đâu thì sợ sệt, khổ sở đủ điều. Như thế mới thấy người tu không phải chỉ mỗi tháng đi cúng chùa ngày rằm, ngày ba mươi hay ăn chay mấy ngày là xong bổn phận. Người tu phải làm sao làm chủ được khi sắp ra đi, biết được ngày ra đi rõ ràng, khi đi an ổn vui tươi, được như vậy mới thoát khổ. Chúng tăng đều làm lễ, Tổ nói kệ rằng: Nhất thiết vô hữu chân, Tổ dạy rằng: Tất cả không có chân thật, chẳng do thấy nơi chân mà gọi là chân, nếu thấy được chân thì cái thấy đó trọn không phải là chân. Chúng ta nghe như khó hiểu, nhưng lẽ thật là như thế. Chân là tự nó chân, nếu thấy chân thì cái chân đó không thành chân. Tại sao? Cái chân thật là của chính mình, mình thấy nó thì nó là cảnh rồi. Cái chân của chính mình hiện ra khi nào cái giả hết, nên thường nói vọng hết thì chân hiện, chớ khi đang vọng mà tìm chân thì chân cũng là vọng, chỉ giả hết thì chân hiện, cũng như tối hết thì sáng hiện; khi đang tối muốn tìm sáng thì làm sao tìm, vì nơi nào cũng tối cả, chỉ khi tối hết, tự nhiên sáng hiện không cần tìm. Cũng thế chúng ta không thể tìm ra chân, nếu tìm chân, thấy được chân thì chân đó không phải là chân, nên nói: Nhược năng tự hữu chân, Tổ chỉ thật là rõ ràng, nếu người hay tự có chân, chân đó ở đâu? Lìa giả tức tâm chân, Tự tâm không chịu lìa giả, không chân chỗ nào tìm ra chân? Như vậy chân có là khi nào lìa được giả, có sáng là khi nào mất tối, còn tối mà muốn tìm sáng là không có, còn theo giả mà muốn tìm chân cũng không có. Thế nên lối tu của chúng ta là lặng vọng mà không cầu chân, vọng hết là chân hiện chớ không cần tìm chân. Khi tìm chân, chúng ta dùng vọng mà tìm thì cái mình thấy chân cũng là vọng. Nhiều người không biết nói rằng: Muốn nghiên cứu đạo Phật, thấy được chân lý cứu kính thì phải đọc sách nhiều, nghiên cứu kỹ, nhưng thật ra không bao giờ thấy. Dùng suy nghĩ là cái giả để tìm chân thì khi nào thấy? Chỉ dứt giả thì chân hiện chớ không cần tìm, vì thế theo đạo Phật muốn đạt được chân lý, phải buông xả tất cả điên đảo vọng tưởng. Đạo Phật không phải là đạo để mình suy nghĩ, buổi đầu do suy nghĩ mà hiểu, nhưng thật ra muốn đạt đến chỗ cứu kính là phải buông xả hết mọi nghĩ suy, mọi cái giả mới được chân. Điểm này Tổ chỉ rõ cho chúng ta: Nếu muốn tự có chân thì phải lìa giả, tức tâm thanh tịnh. Vì thế tôi bảo buông vọng, nghĩa là không bảo tìm Chân tâm mà chỉ buông vọng, khi vọng hết tức nhiên tâm chân. Nếu Tự tâm không chịu lìa giả, lìa vọng thì hỏi chân ở chỗ nào? Vì đâu cũng là giả làm sao có chân, càng tìm chân thì càng không thấy. Đó là điều quan trọng của sự tu. Bài kệ của Tú tài Trương Chuyết có câu “thú hướng chân như tổng thị tà” là như thế, nghĩa là tìm kiếm Chân như thảy đều là tà. Chân như không phải tìm mà được, chỉ buông hết giả là Chân hiện; nắm được nguyên tắc này thì sự tu hành mới không lầm,nếu không nắm được nguyên tắc này thì dễ lầm lắm. Tiếp theo Tổ nói đến động và tịnh: Hữu tình tức giải động, Hữu tình thì biết động, vô tình tức là không biết động, nếu người tu hạnh bất động thì đồng với vô tình bất động. Đây là chỗ chúng ta phải khéo léo, có nhiều người nói tu hạnh bất động rồi muốn đè tâm mình xuống, đóng khung mình trong một chỗ nào, ngồi một chỗ như là ở tù vậy để cho nó bất động. Như thế có bất động được không? Vì nguyên là hữu tình tức là động mà muốn cho bất động làm sao được, thành ra vô tình mất rồi. Nhược mích chân bất động, Tổ dạy: Nếu muốn tìm cái chân thật bất động, phải ngay trên động có bất động. Tổ chỉ cho chúng ta thấy ngay trên động có cái bất động, ví dụ như chúng ta muốn bất động, nên cho rằng mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi là có động, nay cho mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi được không? Nếu mắt không thấy, tai không nghe thì bịt mắt, bịt tai được, còn mũi không ngửi được không? Bịt mũi thì chết còn gì? Như thế muốn tu bất động cách đó là không được. Chỉ mắt thấy sắc mà không chạy theo sắc, thì trên động là bất động, tai nghe tiếng là động nhưng không chạy theo tiếng là bất động, tức là trên động mà bất động thì bất động đó mới là chân thật. Còn chúng ta tránh tất cả để có cái bất động riêng thì cái bất động đó không bao giờ có, vì thành vô tình mất rồi. Trên động mà bất động mới là bất động chân thật. Hiểu được lý này mới thấy được chủ yếu của sự tu. Nếu chúng ta đi tìm cái bất động ở nơi nào đó, thì tìm suốt kiếp không bao giờ có, vì thế gian là động, con người là động, hoàn cảnh là động, trừ chúng vô tình là không động thôi, còn hữu tình là động, đã là động mà muốn bỏ động tìm bất động sao được? Thế nên ngay trên động có cái bất động, còn nói bất động là bất động thì đó là vô tình không có Phật tánh. Chúng ta có Phật tánh tức là có giác, có giác tức là có động, nhưng ngay trên động làm sao cho không động đó mới là cứu kính, nên thường nói thấy nghe mà như mù, như điếc, thấy vẫn thấy, nghe vẫn nghe, như mù như điếc là trên động mà không động, đó mới là chỗ chân thật. Đoạn này hiểu cho rõ mới thấy giá trị, còn không hiểu rõ thì tưởng như xa xôi lắm vậy. Năng thiện phân biệt tướng, Hay khéo phân biệt được tướng, đệ nhất nghĩa bất động tức là ngay trên các tướng, chúng ta khéo phân biệt được nhưng vẫn ở trong đệ nhất nghĩa không động. Thấy bình bông biết bình bông, thấy ly nước biết ly nước, thấy vật gì biết vật ấy nhưng không động, đó là đệ nhất nghĩa không động. Không phải chúng ta mù tối, ngu si, vô giác, nghĩa là vẫn tri vẫn giác, tri giác tức là động nhưng tri giác mà vẫn trong cái tỉnh chớ không phải vọng, đó là bất động ngay trên động. Chỉ khởi cái thấy này tức là dụng của Chân như. Người khéo thấy như vậy là người được diệu dụng của Chân như, trái lại nếu cứ tìm bất động ở chỗ nào khác, đó là si mê không thấy đạo lý. Báo chư học đạo nhân, Bảo với những người học đạo, gắng sức phải dụng tâm, chớ nên đối với pháp môn Đại thừa lại chấp thành trí sanh tử. Nghĩa là Tổ dặn đối với pháp Đại thừa phải khéo dụng tâm cho đúng, đừng sai lầm rồi chấp thành trí sanh tử. Nhược ngôn hạ tương ưng, Bốn câu kệ này chúng ta phải sử dụng cho khéo. Tổ dạy nếu người đối diện cùng mình nói chuyện thích hợp nghe hiểu, cảm thông được, liền cùng họ bàn nghĩa Phật, nếu thật không có hợp thì nên chấp tay khiến hoan hỉ, đừng giận, đừng buồn. Tỉ dụ nói tu Thiền điên v.v... thì nên chấp tay cười thôi, chớ đừng cãi lại, hoặc giận lên. Như vậy khi nói về đạo với nhau, nếu hiểu cảm thông được thì cùng bàn đạo lý, còn nếu cãi nhau thì chấp tay hoan hỉ rồi lui. Nhưng hiện nay có ai chịu làm như thế không, cứ nổi sân lên cãi đỏ mặt rồi nói tôi vì đạo, mà đạo thì đâu có sân! Chúng ta bị bệnh chấp, cái gì cũng chấp, cả đến đạo cũng chấp thành ra phiền não mãi. Tu mà rốt cuộc rồi cũng thành phiền não, chớ không phải hết phiền não, vì gặp cái gì dính cái ấy, chấp cái ấy nên ai chạm tới là nổi sân si. Ở nhà chấp gia đình, chấp cha mẹ, anh em, nên ai phạm tới thì binh rồi phiền não, vào chùa chấp chùa mình, chấp huynh đệ, chấp bổn đạo mình, nên cũng binh rồi cũng phiền não, rốt cuộc ở đâu cũng phiền não. Chấp là gốc của phiền não, hiểu như thế thì có ai cần hỏi đạo lý, chúng ta đem hết lòng thành nói cho họ nghe, nếu họ hiểu được thì cùng bàn, nếu họ chấp thì nên chấp tay hoan hỉ rút lui, như thế mới hợp đạo lý, còn tranh cãi là không hợp với đạo. Thử tông bổn vô tránh, Tông này vốn không tranh, tranh tức mất ý đạo. Chấp nghịch tránh pháp môn, tỉ dụ chấp mình Đại thừa, người Tiểu thừa, chê Tiểu thừa là kém v.v... như vậy là chấp pháp môn nghịch rồi sanh tranh cãi thì Tự tánh vào sanh tử. Tự tánh đi trong sanh tử chớ không vào Niết-bàn! Tổ dạy thật quá kỹ, Ngài dạy chúng ta tu, dạy chúng ta xử sự sao cho hợp với đạo, đừng để cái chấp đưa chúng ta đến chỗ mê lầm, đến trong sanh tử. Khi ấy đồ chúng nghe Tổ nói kệ rồi thảy đều làm lễ, biết rõ ý Tổ, mỗi người nhiếp tâm, y theo pháp tu hành, lại không dám tranh cãi. Biết Tổ không còn ở đời bao lâu, Thượng tọa Pháp Hải lại đảnh lễ hỏi rằng: Sau khi Hòa thượng nhập diệt, y pháp sẽ trao cho người nào? Tổ bảo: Tôi ở chùa Đại Phạm nói pháp cho đến ngày nay, sao chép để lưu hành, gọi là Pháp Bảo Đàn Kinh, các ông gìn giữ, truyền trao cho nhau, độ các quần sanh, chỉ y nơi lời nói này, ấy gọi là chánh pháp, nay vì các ông nói pháp chớ chẳng trao y, bởi vì các ông tín căn đã thuần thục, quyết định không còn nghi ngờ, kham nhận được đại sự. Khi hỏi sau khi Tổ tịch rồi y bát trao cho ai thì Tổ bảo sau khi Tổ tịch, tất cả những thời pháp Tổ giảng từ khi khởi sự ở chùa Đại Phạm về sau, ghi chép lại để tên là Pháp Bảo Đàn Kinh rồi truyền bá cho nhau, chớ không truyền y nữa. Nay chúng ta được học quyển Pháp Bảo Đàn này là được truyền pháp của Tổ. Tại sao không truyền y? Vì các đệ tử của Ngài lòng tin đã thuần, không còn nghi nữa. Nhưng cứ theo ý bài kệ “Phó thọ” của Sơ tổ Đạt-ma, y không nên truyền. Kệ rằng: Ngô bản lai tư độ, Tổ Đạt-ma bảo: Ngài sang Trung Hoa truyền pháp để cứu mê tình, một hoa là Tổ Đạt-ma, sanh ra năm cánh tức là đến Tổ thứ sáu là năm vị, đến đây thì kết quả tự nhiên thành, vì thế dưới Lục Tổ không truyền y bát nữa. Tổ lại bảo: Các Thiện tri thức, các ông mỗi người nên tịnh tâm lắng nghe tôi nói pháp, nếu muốn thành tựu chủng trí phải đạt được Nhất tướng tam-muội và Nhất hạnh tam-muội. Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong tướng kia, không sanh yêu ghét, cũng không thủ xả, chẳng nghĩ các việc lợi ích thành hoại v.v... an nhàn điềm tịnh, hư dung đạm bạc, đây gọi là Nhất tướng tam-muội. Tôi nói lại cho dễ hiểu, Nhất tướng tam-muội là đối tất cả chỗ mà không trụ tướng, trên tất cả tướng đó không sanh yêu ghét, thủ xả, lợi ích v.v... Nghĩa là đối tất cả tướng mà không chấp không trụ, không sanh yêu ghét thủ xả v.v..., như vậy bao nhiêu tướng chúng ta đều không dính mắc nên gọi là Nhất tướng tam-muội. Bao nhiêu tướng mà không dính tướng nào cả thì xem như là một tướng, chánh định chỉ có một tướng. Người không chấp tất cả pháp thì dáng vẻ an nhàn điềm đạm. Tỉ dụ trước sân chúng ta có một chậu kiểng đang nở hoa đẹp, chợt một đứa bé đi ngang ngắt một cái hoa lúc đó mình có an nhàn điềm đạm không? Chúng ta chấp rằng hoa mình trồng cực khổ, hoa của mình là quí, nay bị ngắt liền nổi giận, la đứa bé, tức nhiên chúng ta mất đi sự an nhàn điềm đạm. Vì chấp tướng nên một việc gì xúc phạm đến chúng ta, chúng ta đều nổi giận la lối, hoặc trong trường hợp chúng ta hay thân nhân chúng ta bệnh hoạn, chúng ta hốt hoảng v.v... Như vậy để thấy rõ do chấp tướng nên chúng ta trở thành thô bạo, bất thường, nếu không chấp tướng thì mọi hành động đều an nhàn, điềm tĩnh, hư dung đạm bạc. Tóm lại trên tất cả tướng mà không dính, không mắc, không sanh yêu ghét, thủ xả, đó là Nhất tướng tam-muội. Tam-muội là chánh định, chánh định chỉ có một tướng là không dính tất cả tướng. Nếu ở tất cả chỗ đi đứng nằm ngồi thuần một trực tâm, không động đạo tràng, chân thành Tịnh độ, đây gọi là Nhất hạnh tam-muội. Nhất hạnh tam-muội không phải là một hạnh ngồi yên một chỗ. Nhất hạnh tam-muội là làm sao trong bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm chỉ thuần một trực tâm, chỉ một tâm ngay thẳng thuần nhất, không có cong vẹo, thì ngay cõi này chính là Tịnh độ, vì không có tâm đổi thay cong vẹo thì đâu có buồn giận thương ghét, như vậy ngay đây là Tịnh độ. Nếu người đủ hai tam-muội này như đất đã có chứa hạt giống, nuôi dưỡng lớn lên, thành thục được hạt kia, Nhất tướng Nhất hạnh cũng lại như thế. Đất có chứa hạt giống lúa, hạt lúa được nuôi lần lần lớn lên thành cây có bông và kết quả thành hạt lúa. Người có đủ hai tam-muội chắc chắn kết quả cũng thành Phật không nghi. Như vậy muốn thành Phật phải có đủ Nhất tướng tam-muội và Nhất hạnh tam-muội. Tôi nói lại “Nhất hạnh tam-muội” là trong bốn oai nghi đều một trực tâm, còn “Nhất tướng tam-muội” là đối tất cả tướng không dính mắc tướng nào cả, không yêu ghét thủ xả..., đủ cả hai tam-muội thì như đất đã có hạt giống sẵn, nuôi dưỡng lần lần lớn lên có bông, có hạt. Nay tôi nói pháp ví như khi trời mưa ướt khắp cả quả đất, Phật tánh của các ông ví như là hạt giống gặp được sự thấm ướt này thảy đều phát sanh, nương lời chỉ dạy của tôi, quyết định được Bồ-đề, y theo hạnh của tôi, quyết định chứng được diệu quả, hãy nghe tôi nói kệ: Tâm địa hàm chư chủng, Đất tâm chứa các hạt giống, tức hạt giống Bồ-đề, khi mưa rưới thì tất cả đều nảy mầm, đốn ngộ hoa tình rồi, quả Bồ-đề tự nhiên thành tựu không nghi. Tổ nói kệ rồi bảo: Pháp kia không hai, tâm kia cũng vậy. Pháp không hai là đối với tất cả tướng mà chỉ là một tướng, Nhất tướng tam-muội; tâm kia không hai là trong tất cả oai nghi đi đứng nằm ngồi đều chỉ một trực tâm. Đạo kia thanh tịnh, cũng không các tướng, các ông dè dặt chớ quán tịnh và để tâm kia không, tâm này vốn tịnh, không nên thủ xả, mỗi người tự nỗ lực tùy duyên đi vui vẻ. Khi ấy cả thảy chúng đều làm lễ thối lui. Mục Lục
|
Kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải
|
Phẩm 10 PHÓ CHÚC (Giảng 2)