Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục Giảng Giải (1999)
Chánh Văn - VI. Khai Thị Ngộ Nhập Được Duyên Tốt Truyền Trao Ấn Chứng
Một hôm Sư dạy chúng: - Từ khi ta lên trụ chùa Nguyệt Đường, lập Thiền tịnh viện thì đệ tử ở khắp nơi theo về đông đảo để học đạo qui y, thảy đều ghi tên tất cả để rõ dấu tích. Trong đó đệ tử Thượng túc là Hòa thượng Viên Thông tự Chân Lý Hiển Mật. Kế là các vị: Chân Tạng Mật Hạnh, Chân Chiếu Hoa Mỹ, Chân Tông Quản Trí, Chân Quý Phổ Ứng, Chân Truyền Quang Tán, Chân Tịch Khổ Hạnh, Chân Thành Bồ-đề, Chân Thường, Chân Cảnh, Chân Thước, Chân Ý, Chân Thị, Chân Thuần, Chân Đẳng, Chân Bình, Chân Pháp, Chân Quản, Chân Trí, Chân Bảo, Chân Thường, Chân Đông, Chân Dung, Chân Quả, Chân Viên, Chân Kinh, Chân Tĩnh, Chân Quang. Hàng chữ “Chân” này được bảy mươi vị, trên đây là tạm ghi những vị lớn tiếp nối truyền đăng. Sau đây là hàng cháu thuộc chữ “Như”: Thứ nhất là người tiếp nối hương hỏa, Tăng lục ty Hòa thượng Tăng thống Chánh Tông tự Như Nguyệt hiệu Hoa Quang (trụ trì chùa). Kế là Sơn tăng Như Tông, Tăng phó Như Túc, Như Khoản, Tăng phó Như Nhật, Nội đàn Như Đài, Như Bảo, Tăng chánh Như Sơn, Tăng phó Như Thừa, Như Công, Tăng phó Như Thuyên, Hữu công Như Hiền, Như Nhẫn, Tăng thống Như Toàn, Hữu công Như Biện, Như Đề, Tăng chánh Như Viên, Như Kiên, Như Lưu, Như Mật, Tăng phó Như Cảnh, Như Hải, Như Khanh, Như Nghiệm… khoảng hai trăm vị, trên đây chỉ tạm ghi hai mươi bốn vị hoặc có công với chùa, hoặc có sắc mệnh. Kế là hàng cháu chắt thuộc chữ “Tánh”. Thứ nhất là Chánh phái Phụng thị Nội đàn Tăng thống tự Tánh Thanh, Nội đàn Tánh Liễn, Tánh Kế, Đạm hạnh Tánh Khả, Nội đàn Tánh Châu, Tánh Duệ, Tánh Thước, Tánh Tường, Tánh Mẫn, Tánh Nhu, Tánh Định, Tánh Bạch, Tánh Anh, Tánh Trác, Tánh Đức, Tánh Trí, Tánh Lãng, Tánh Tiếp, Tánh Phụng, Tăng phó Tánh Xán, Tánh Tuyên, Tăng chánh Tánh Hoàn, Tánh Không… Hàng chữ “Hải” gồm có: Tăng phó Hải Bồi, Hải Triều, Hải Thường, Hải Nhã, Hải Đồng, Hải Diên, Hải Lịch, Hải Khoát, Hải Liêm, Hải Trung… Ni cô xuất gia từ nhỏ, giới hạnh tinh nghiêm khoảng ba mươi vị. Cư sĩ nam nữ cả ngàn muôn vị đều qui hướng theo Sư. Sư thường đọc lại những bài kệ để dạy chúng: Kệ ngộ liễu. Bài 1 Giác không không giác, không không giác, Dịch: Giác không, không giác, không không giác, Bài 2 Sư tử quật trung sư tử, Dịch: Sư tử trong hang sư tử, Bài 3 Long đắc thủy thời thiêm ý khí, Dịch: Được nước rồng càng thêm ý khí, Bài 4 Thiên thượng hữu tinh giai cung Bắc, Dịch: Sao ở trên trời đều chầu Bắc, Bài 5 Hoặc thị hoặc phi nhân mạc thức, Dịch: Hoặc phải hoặc quấy nào ai biết, Sư thăng tòa dạy chúng: - Có một người một đời làm lành. Có một người một đời làm dữ. Người làm lành một sớm phạm giới không cho mà lấy. Người làm dữ một niệm liễu ngộ Tự tâm. Người lành phạm giới không cho mà lấy, tức gọi là giặc. Người dữ liễu ngộ Tự tâm, tức gọi là Phật. Hai người đồng đến Vân Môn hỏi chấp nhận người nào đúng. Nếu chấp nhận người lành bỏ người dữ thì là nhận giặc mà bỏ Phật. Nhận người dữ bỏ người lành, thì là sợ ác mà khinh thiện. Nếu chấp nhận cả hai người thì Phật và giặc chẳng phân. Nếu cả hai người đều không nhận thì lành dữ chẳng rõ. Nếu quyết định chỉ Phật là người ác thì chuốc tội chê bai Phật, vào địa ngục như tên bắn. Nếu chỉ giặc là người lành thì chưa có người lành nào mà làm giặc. Tụng: Bài 1 Tân phụ kỵ lư a gia khiên, Dịch: Cô dâu cỡi lừa mẹ chồng dẫn, Bài 2 Phu tử bất thức tự, Dịch: Khổng Tử không biết chữ, Bài 3 Tầm ngưu tu phỏng tích, Dịch: Tìm trâu phải noi dấu, Bài 4 Sanh tùng hà xứ lai? Dịch: Sanh từ chỗ nào đến? * * * Một hôm Sư thảnh thơi ngâm hai bài kệ dặn dò người tại gia: Bài 1 Thành thị du lai ngụ tự chiền, Dịch: Từ thành thị đến nghỉ chùa chiền, Bài 2 Thượng sĩ thường du Bát-nhã lâm, Dịch: Thượng sĩ từng chơi cảnh tùng lâm, * * * Lại một hôm Sư rảnh rang dạy chúng: - Muốn cầu thấy Phật cứ nhận nơi chúng sanh, chỉ vì chúng sanh mê không tự biết có Phật, chớ Phật đâu có làm mê chúng sanh. Ngộ được Tự tánh của mình thì chúng sanh là Phật, mê Tự tánh của mình thì Phật là chúng sanh. Giữ được Tự tánh của mình bình đẳng thì chúng sanh là Phật, để Tự tánh mình gian hiểm thì Phật là chúng sanh. Tâm ta sẵn có Phật, Phật sẵn nơi mình đó là chân Phật. Nếu Tự tâm không Phật thì tìm chân Phật nơi nào? Nên kinh nói: “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt thì các pháp diệt.” Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ-đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật. Niệm trước chấp cảnh là phiền não, niệm sau lìa cảnh là Bồ-đề. Tự thể của Chân tâm chẳng phải chỗ ta nói bày đến được, trong suốt như hư không không bờ mé, như tấm gương trong sạch tròn sáng, khen chê khó đến kịp, nghĩa lý khó suốt thông. Không thể lấy cái có không, nơi này chốn nọ mà xét tột được chỗ u huyền của nó. Cũng không thể lấy trí khôn và ngôn ngữ mà bàn đến chỗ huyền diệu của nó. Chỉ có ai ngộ được Chân tâm thì hiểu ngay nơi mình. Ví như muôn thứ hương thơm, chỉ đốt một lò là hiểu hết mùi thơm. Như vào bể cả tắm, chỉ cần hớp một ngụm nước là biết hết toàn vị của bể cả. Chốn chân thật thâm sâu lặng lẽ, giác ngộ thì bụi trần lắng sạch Tâm thể trong ngần; dứt hết mối manh danh tướng của ngoại cảnh, sạch hết những năng sở ở trong tâm. Bởi ban đầu bất giác, bỗng khởi ra vọng động, chiếu soi lại Tự tâm, theo cái chiếu soi ấy mà sanh ra tâm trần, nên gọi là chúng sanh. Như gương hiện hình tượng, chợt có thân căn. Từ đó Chân tâm bị dời đổi, căn tánh bị sai lạc, chấp vào tướng đuổi theo danh, chứa mãi những vọng trần ứ đọng, kết mãi những vọng thức liên miên. Đem túm bọc chân giác vào giấc mê đêm, đắm chìm mê muội trong tam giới. Làm mù lòa con mắt trí ở trong ngõ tối, khúm núm cúi lòn trong chín loài. Ở trong cõi chẳng đổi dời, bỗng dưng luống chịu kiếp luân hồi. Trong pháp vô thoát, mà tự chuốc sự trói buộc nơi thân. Như con tằm mùa xuân, làm kén tự giam mình, con thiêu thân mùa thu tự nhào vô đèn thiêu xác. Đem những sợi tơ nhị kiến buộc lấy nghiệp căn khổ sở, dùng đôi cánh của lòng tham mù quáng toan dập tắt vòng lửa tử sanh. Lại có những kẻ tà căn ngoại chủng, tiểu trí quyền cơ; chúng không hiểu rõ nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến chấp của ngã nhân (ta người). Chỉ muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từng tướng tách từng mảnh bụi của từng vật thể để tìm hiểu biết. Làm như thế, tuy nói rằng nếm được mùi tĩnh lặng, thầm hợp với lý không, nhưng không biết đó là cái lối làm chôn vùi Chân tánh, trái ngược Chân giác, chẳng khác nào kẻ chẳng biện rõ sắc xanh đỏ trong mắt, chỉ lo tắt quầng sáng của ngọn đèn, không lo xét tột cùng cái huyễn thân ở trong thức, lại luống chạy trốn cái bóng rỗng dưới mặt trời. Như thế chỉ lao nhọc tinh thần, tốn hao sức lực. Chẳng khác nào đổ nước vào băng, ném củi vào lửa. Có biết đâu, bóng lòa hiện ra màu xanh, bóng rỗng theo nơi thân. Nếu chữa khỏi bệnh lòa ở mắt thì bóng xanh kia tự mất, diệt thân huyễn chất này thì bóng nọ không còn. Nếu biết quay ánh sáng soi lại nơi mình, bỏ ngoại cảnh mà xem ở Tự tâm, thì Phật nhãn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, Pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt. Ta phải lấy lưỡi dao trí của tâm tự giác mà rạch lấy ra tâm châu trong những mối dây quấn chặt. Phải dùng mũi giáo tuệ chặt đứt lưới kiến chấp trong trần cảnh. Ấy chính là tông chỉ cùng tâm chân thuyên đạt thức đó vậy. Sư lại nói: - Trí hay chiếu vốn không, cảnh bị duyên cũng lặng. Lặng mà không phải lặng, bởi không có người hay lặng. Soi mà không soi, bởi không có cảnh bị soi. Cảnh và trí đều lặng, tâm lo nghĩ an nhiên, đây chính là con đường cốt yếu trở về nguồn. Lại nói: - Lặng lặng sanh vô ký, tỉnh tỉnh sanh loạn tưởng. Lặng lặng dù hay trị loạn tưởng mà trở lại sanh vô ký. Tỉnh tỉnh dù hay trị vô ký mà trở lại sanh loạn tưởng. Vì vậy nói: “Tỉnh tỉnh lặng lặng phải, vô ký lặng lặng sai. Lặng lặng tỉnh tỉnh phải, loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.” Sư lại nói: - Người phàm phần nhiều ở nơi sự làm ngại lý, nơi cảnh làm ngại tâm, nên thường muốn trốn cảnh để an tâm, bỏ sự để giữ lý. Song chẳng biết, chính tâm ấy làm ngại cảnh, lý làm ngại sự. Chỉ cần tâm không thì cảnh tự không, lý lặng thì sự tự lặng, chợt liền trở ngược lại Tự tâm. Vọng thân đem đến gương soi bóng, bóng chẳng khác với vọng thân. Chỉ muốn bỏ bóng ghét vọng, có biết đâu thân cũng vốn hư dối, thân nào khác với bóng mà muốn một có, một không? Nếu muốn lấy một, bỏ một hằng cùng chân lý cách xa. Lại mến Thánh ghét phàm thì nổi chìm trong biển sanh tử. Phiền não nhân tâm cố hữu, Dịch: Phiền não do tâm nên có, Sư lại nói: Thức đắc y trung bảo, Dịch: Biết được báu trong áo, Pháp thân không hình tướng, chẳng thể đem âm thanh cầu. Diệu đạo không lời nói, chẳng thể dùng văn tự hội. Dẫu cho vượt lên Phật Tổ, vẫn rơi vào thềm bậc. Mặc dù nói diệu bàn huyền, cuối cùng cũng dính trên môi lưỡi. Phải là, chẳng phạm công huân, chẳng để dấu vết, như cây khô, gộp đá lạnh, trọn không chút tươi nhuận. Như người huyễn, ngựa gỗ đều không tình thức. Được như thế, mới hay buông tay vào chợ, chuyển thân đi trong dị loại. Cũng chẳng nói: Trong cõi vô lậu giữ chẳng dừng, (Vô lậu quốc trung lưu bất trụ, Nếu dùng cái biết mà biết lặng, đây chẳng phải là cái biết không duyên. Như tay cầm hạt châu Như ý, chẳng phải không có cái tay và châu Như ý. Nếu dùng tự biết mà biết, cũng chẳng phải cái biết không duyên. Như tay tự nắm lại, chẳng phải không có cái tay nắm. Cũng chẳng biết cái lặng lặng, cũng chẳng biết cái biết biết, song không thể cho là không biết. Vì Tự tánh tỏ rõ nên chẳng đồng với cây đá. Tay chẳng cầm hạt Như ý, cũng chẳng tự nắm lại, chẳng thể cho là không có tay. Do cái tay vốn sẵn như vậy nên chẳng đồng với sừng thỏ. Mé trước không phiền não đáng trừ, mé giữa không Tự tánh đáng giữ, mé sau không Phật đáng thành. Đó là dứt bặt cả ba mé, ba nghiệp được mát mẻ. Ta vừa mống tâm đã thuộc về quá khứ rồi. Tâm ta chưa mống bèn gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai, tức là tâm quá khứ, vậy tâm hiện tại ở chỗ nào? Người học rõ biết một niệm vừa dấy lên trọn không thật có, đó là Phật quá khứ. Quá khứ chẳng có, vị lai chẳng không, đó là Phật vị lai. Ngay đây niệm niệm chẳng dừng, đó là Phật hiện tại. Niệm niệm tương ưng tức niệm niệm thành Phật. Đây chính là cửa phương tiện tột ban đầu. Khi mặt trời lên thì sáng khắp thiên hạ mà hư không chưa từng sáng. Khi mặt trời lặn thì tối khắp thiên hạ mà hư không chưa từng tối. Hai cảnh tối và sáng tự lấn đoạt lẫn nhau, tánh hư không thì rỗng rang tự sẵn như vậy. Tâm Phật và chúng sanh cũng như thế. Nếu xem Phật là tướng thanh tịnh sáng rỡ, xem chúng sanh là tướng nhơ đục tối tăm, dù trải qua số kiếp như cát sông Hằng trọn chẳng được Bồ-đề. Lại ba đời chư Phật trọn ở trong thân chính mình. Nhân bị tập khí che mờ, cảnh vật chuyển lôi liền tự mê mất. Nếu ở nơi tâm mà vô tâm, chính là Phật quá khứ. Lặng lẽ chẳng động, chính là Phật vị lai. Tùy cơ ứng vật, chính là Phật hiện tại. Thanh tịnh không nhiễm, chính là Phật ly cấu. Ra vào không ngại, chính là Phật thần thông. Đến đâu đều thảnh thơi là Phật tự tại. Một tâm chẳng mê mờ, là Phật quang minh. Đạo niệm bền vững là Phật bất hoại. Biến hóa ra nhiều nơi song chỉ một chân thật vậy thôi. Diễn-nhã-đạt-đa chấp bóng quên đầu, đâu khỏi ôm đầu chạy đi tìm đầu. Chính ngay khi mê đó, cái đầu vẫn chẳng mất, đến khi tỉnh rồi cũng chẳng có được. Tại sao? Kẻ mê cho là mất, người ngộ cho là được. Được mất ở nơi người, đâu dính dáng gì với động tịnh. Sư lại nói: - Chí đạo gốc ở tâm, tâm pháp gốc ở vô trụ. Tâm thể vô trụ đó, tánh tướng đều lặng lẽ, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt, tìm nó thì chẳng được, bỏ đi cũng chẳng rời. Mê hiện lượng thì hoặc và khổ lăng xăng. Ngộ Chân tánh thì rỗng rang tỏ suốt. Tuy tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, song chỉ có người chứng mới biết. Song còn chấp có chứng, có biết thì mặt trời trí tuệ rơi vào đất có. Nếu tâm mờ mịt không chiếu, không sáng thì đám mây hôn trầm che lấp ở cửa không. Chỉ có tâm không sanh một niệm thì không còn ngăn cách trước sau, Chân tánh chiếu thể đứng riêng thì ta người nào khác. Nhưng mê đối với ngộ, ngộ trông vào mê, vọng đối với chân, chân nương nơi vọng. Nếu ta cầu chân mà bỏ vọng như người chạy trốn bóng luống nhọc mình. Nếu ta nhận chân chính nơi vọng, như người vào chỗ mát thì bóng mất. Nếu tâm không vọng chiếu thì vọng lự tự hết. Nếu mặc tình lặng biết thì các thiện hạnh được phát khởi. Thế nên cái ngộ tịch mà không tịch, cái chân tri dường như vô tri. Do một tâm không phân chia tịch và tri, khế hợp với lẽ huyền diệu dung thông cả có và không, không chấp, không mắc, không nhiếp, không thu, phải quấy đều quên, năng sở cũng dứt. Cái dứt ấy cũng bặt luôn thì Bát-nhã hiện tiền, mỗi tâm đều thành Phật, không tâm nào chẳng phải tâm Phật; chốn chốn đều thành đạo, không một hạt bụi nào chẳng phải cõi Phật. Thế nên chân với vọng, vật với ngã, đều do ở một tâm ta. Phật với chúng sanh cũng đều chung nhau một tâm ấy. Nếu mê thì người theo sự vật, sự vật thì vô vàn nên người chẳng giống nhau. Nếu ngộ thì sự vật theo người, người đem một trí mà dung hòa muôn cảnh. Đến đây thì hết chỗ nói năng, bặt đường tư tưởng còn gì mà nói nhân trước quả sau? Tâm thể rỗng lặng, còn gì là người này giống, kẻ kia khác. Chỉ còn một tâm trong sáng, tăng giảm chan hòa. Như tấm gương sáng tuy không có hoa mà bóng hoa hiện, gương vẫn vô tâm; tuy thấy ảnh tượng chiếu trong gương, mà ảnh tượng vẫn hằng không. Hơn nữa, đạo thì luận nói cũng chẳng được, im lặng cũng chẳng được; dù cho quên cả hai nói và im cũng không dính dáng. Tại sao? Quang minh của bậc Cổ Phật, phong thái của hàng Tiên đức, mỗi mỗi đều từ trong chỗ không muốn, không nương mà được phát hiện. Hoặc có khi cao vút vòi vọi trọn không thể nhổ lên, hoặc có khi bao trùm hòa lẫn trọn không chỗ thấy. Cuối cùng chẳng cố định một chỗ, cũng chẳng dính mắc ở hai đầu, không phải mà không gì chẳng phải, không quấy mà không gì chẳng quấy, được cũng không chỗ được, mất cũng không chỗ mất, chẳng từng cách xa một mảy tơ, chẳng từng dời đổi một sợi tóc, sáng ngời lối xưa, chẳng thuộc nhiệm mầu sâu kín (huyền vi), ngay trước mặt đem lại, chợt đó liền qua, chẳng ở nơi chánh vị, đâu rơi vào lối tà, chẳng đi nơi thênh thang, đâu đạp vào lối nhỏ, xoay đầu chẳng gặp, chạm mắt lại không đối trước, một niệm xem khắp, thênh thang rỗng lặng. Một chút tông yếu này, ngàn Thánh chẳng truyền, thẳng đó rõ biết, ngay đây vượt lên. Mới biết, chỗ sạch trọi trơn thế ấy tức dễ, chỗ sáng rỡ rõ ràng thế ấy tức khó. Nếu là việc bổn phận thì tay chân buông đi mà không cái gì thu chẳng đến, mỗi mỗi phóng ánh sáng hiện tướng lành, mỗi mỗi dứt bặt dấu vết, trên cơ trọn chẳng dừng, trong lời không thể bày, tột đáy khuấy chẳng đục, toàn thân đập chẳng nát, rốt ráo là cái gì được tinh thông thế ấy, được kỳ đặc thế ấy? Này các ngài! Chẳng cần biết mặt mũi y, chẳng cần đặt tên cho y, cũng chớ tìm chỗ nơi của y. Tại sao? Vì y không chỗ nơi, y không tên tuổi, không mặt mũi, ta vừa dấy niệm đuổi tìm liền cách mười đời, năm đời. Chi bằng buông đi tự do, cần bước liền bước, cần dừng liền dừng, tức thiên nhiên mà chẳng phải thiên nhiên, tức như như mà chẳng phải như như, tức trong lặng mà chẳng phải trong lặng, tức bại hoại mà chẳng phải bại hoại, không thích sống không sợ chết, không cầu Phật, không sợ ma, chẳng cùng hợp với Bồ-đề, chẳng đồng chung với phiền não, chẳng nhận một pháp, chẳng ghét một pháp, không ở đâu mà ở tất cả, chẳng phải lìa mà chẳng phải chẳng lìa. Nếu ai hay thấy được như thế thì Thích-ca tự Thích-ca, Đạt-ma tự Đạt-ma. Sư lại nói: - Tám mươi bốn ngàn pháp môn Ba-la-mật, mỗi môn luôn mở ra các đức Phật nhiều như bụi nhỏ trong cõi Tam thiên Đại thiên. Mỗi đức Phật nói pháp đều chẳng nói có, chẳng nói không, chẳng nói không phải có không phải không, chẳng nói cũng có cũng không. Sao vậy? Ly tứ cú tuyệt bách phi, Dịch: Lìa bốn câu bặt trăm quấy, *** Rảnh rang Sư thường ngâm lại những bài kệ dạy chúng: Bài 1 Nhất thiết vô tâm Tự tánh Giới, Dịch: Tất cả không tâm Tự tánh Giới, Bài 2 Bất kiến nhất pháp tồn vô kiến, Dịch: Chẳng thấy một pháp còn thấy không, Bài 3 Kiến văn tri giác vô chướng ngại, Dịch: Thấy nghe hiểu biết không ngăn ngại, Bài 4 Cô viên khiếu lạc trung nham nguyệt, Dịch: Vượn lẻ hú rơi trăng lưng núi, Bài 5 Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, Dịch: Dứt học không làm, đạo nhân nhàn, Bài 6 Ngộ tâm dung dị tức tâm nan, Dịch: Ngộ tâm là dễ, khó dừng tâm, Bài 7 Ngu nhân trừ cảnh bất trừ tâm, Dịch: Kẻ ngu trừ cảnh chẳng trừ tâm, Bài 8 Nhất diệp biển chu phiếm diểu mang, Dịch: Một chiếc thuyền con vượt bể khơi, Bài 9 Nam đài tĩnh tọa nhất lô hương, Dịch: Đài nam tĩnh tọa một lò hương, Bài 10 Sấu trúc trường tùng trích thúy hương, Dịch: Tre gầy thông cỗi nhỏ giọt hương, Bài 11 Trụ mộng na tri mộng thị hư, Dịch: Trong mộng đâu hay mộng dối hư, Bài 12 Khô mộc nham tiền sai lộ đa, Dịch: Cây khô trước núi dễ lạc đàng, Bài 13 Nhàn tọa yến nhiên thánh mạc tri, Dịch: Thảnh thơi ngồi lặng Thánh biết chi, Bài 14 Vũ tẩy đạm hồng đào ngạc nộn, Dịch: Mưa rửa nhạt đào hồng nhụ mởn, Bài 15 Nhất dước dước phiên tứ đại hải, Dịch: Một nhảy nhảy khỏi bốn bể cả, Bài 16 Hảo sự đôi đôi điệp điệp lai, Dịch: Việc đến dập dồn cũng tốt luôn, Bài 17 Liễu vọng qui chân vạn lụy không, Dịch:Bỏ vọng về chân muôn lụy không, Bài 18 Tâm pháp song vong du cách vọng, Dịch: Tâm, pháp đều quên còn cách vọng, Bài 19 Tàng thân vô tích cánh vô tàng, Dịch: Tàng thân không dấu lại không tàng, Bài 20 Quang minh tịch chiếu biến hà sa, Dịch: Quang minh tịch chiếu khắp hà sa, Bài 21 Cảnh duyên vô hảo xú, Dịch: Cảnh duyên không tốt xấu, Bài 22 Vọng tình ký bất khởi, Dịch: Vọng tình đã chẳng sanh, Bài 23 Kiến đạo phương tu đạo, Dịch: Thấy đạo mới tu đạo, Bài 24 Suy chân chân vô tướng, Dịch: Xét chân, chân không tướng, Bài 25 Thiện ký tùng tâm sanh, Dịch: Thiện đã từ tâm sanh, Bài 26 Hữu vật tiên thiên địa, Dịch: Có vật trước trời đất, Bài 27 Không thủ bả sừ đầu, Dịch: Tay không cầm cán cuốc, Bài 28 Dạ dạ bão Phật miên, Dịch: Đêm đêm ôm Phật ngủ, Bài 29 Nhãn quang tùy sắc tận, Dịch: Nhãn quang theo sắc hết, Bài 30 Phiến nguyệt xâm hàn đàm, Dịch: Mảnh trăng ngâm đầm lạnh, Bài 31 Kiến vật tiện kiến tâm, Dịch: Thấy vật liền thấy tâm, Bài 32 Phật vị vô tâm ngộ, Dịch: Phật do không tâm ngộ, Bài 33 Ngại xứ phi tường bích, Dịch: Chỗ ngại chẳng tường vách, Bài 34 Mỹ ngọc tàng ngoan thạch, Dịch: Ngọc đẹp ẩn đá cứng, Bài 35 Nhật dụng vô phi đạo, Dịch: Đạo tức hằng ngày dụng, Bài 36 Cảnh lập tâm tiện hữu, Dịch: Cảnh lập tâm liền có, Bài 37 Y pháp bất y nhân, Dịch: Y pháp chẳng y nhân, Bài 38 Nhất đóa hàm đán liên, Dịch: Một đóa hoa sen búp, * Một hôm quan Trấn thủ đến chùa Nguyệt Đường vịnh bài thơ: Lục trầm thùy thức ngụ thao tàng, Dịch: Đất sâu ai biết chứa kho tàng, Một hôm, Sư hỏi môn nhân: - Thế nào là mặt thật xưa nay? Đại chúng đáp: Đầy mắt núi xanh không tấc cỏ, (Mãn mục thanh sơn vô thốn thảo, Sư lại hỏi: - Thế nào là Pháp thân chính mình? Đại chúng đáp: - Năm uẩn không pháp, thể trùm sa giới. (1) Bản Hán là Huyền Sa vô thử ngữ. Nay xin chỉnh lại cho đúng. (2) La Loan: Chỗ biển của quỉ La-sát ở. (3) Ngài: Con thiêu thân. (4) Bản Hán là chữ Nhất xin sửa lại chữ Ngã cho đúng với nguyên văn bài của Tú tài Chương Chuyết. (5) Bản Hán là chữ Thị, đây xin sửa lại chữ Đẳng cho đúng với nguyên văn bài của Tú tài Chương Chuyết. (6) Câu này xin sửa lại theo kinh Niết-bàn. Mục Lục
|
Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục Giảng Giải (1999)
|
Chánh Văn - III. Sư Bị Chúa Nghe Lời Gièm Pha Cho Về Quê Quán Cũ
Chánh Văn - IV. Sư Ra Vùng Bên Ngoài Gần Trấn Lập Thiền Tịnh Viện
Chánh Văn - VI. Khai Thị Ngộ Nhập Được Duyên Tốt Truyền Trao Ấn Chứng
Giảng Giải - III. Sư Bị Chúa Nghe Lời Gièm Pha Truyền Cho Về Quê Quán Cũ
Giảng Giải - IV. Sư Ra Vùng Bên Ngoài Gần Trấn Lập Thiền Tịnh Viện
Giảng Giải - VI. Khai Thị Ngộ Nhập Được Duyên Tốt Truyền Trao Ấn Chứng (1)
Giảng Giải - VI. Khai Thị Ngộ Nhập Được Duyên Tốt Truyền Trao Ấn Chứng (2)
Giảng Giải - VI. Khai Thị Ngộ Nhập Được Duyên Tốt Truyền Trao Ấn Chứng (3)