Gương hạnh Thầy tôi
Gương hạnh Thầy tôi (p3)
3. LUÔN TRỌNG ƠN NGHĨA Về ơn nghĩa, Hòa thượng đã thọ dụng của ai thì không bao giờ quên. Mỗi khi nói chuyện với đại chúng, Hòa thượng thường nhắc lại công ơn của quý Hòa thượng khi xưa đã dạy bảo Ngài. Chính vì lẽ ấy, Hòa thượng đã đứng ra vận động trùng tu chùa Phước Hậu vào năm 1952. Một hôm, tổ Khánh Anh gọi Hòa thượng đến bảo: "Ngôi chùa này thí chủ cúng cho tôi từ năm 1941, nay đã hư mục. Tôi dành dụm được một số tiền là 150 ngàn đồng, định sữa chữa lại nhưng thấy chưa đủ. Ông vận động cho đủ để xây cất lại. Nếu tôi có theo Phật cũng được an lòng." Thế rồi năm 1960 Tổ viên tịch, Hòa thượng nhận lấy trọng trách trùng tu lại chùa để Tổ an lòng nơi cõi Phật. Trụ trì chùa Phước Hậu bấy giờ là Hòa thượng Hoàn Phú. Thầy tôi tuy là đệ tử của Tổ nhưng đi dạy và làm Phật sự tại Ấn Quang, không có trách nhiệm đối với chùa Phước Hậu. Nhưng Tổ đã hết lòng tin tưởng mà giao lại việc này cho Thầy. Vì vậy Thầy đã cố gắng vận động trùng tu, làm tròn bổn phận của mình. Đó là một việc làm rất có ý nghĩa. Vậy mới thấy người hiếu thảo với cha mẹ cũng là người biết quý trọng thầy tổ. Nếu không hiếu thảo với mẹ cha thì đối với thầy tổ cũng khó có tâm quý trọng như vậy. Lại nữa, gia đình ông Trương Hoàng Lâu trước kia có đóng góp một phần tài chánh giúp Hòa thượng ra Huế học. Sau lần giải phẫu ở bệnh viện Đồn Đất, Hòa thượng được tin bà Trương Hoàng Lâu tạ thế tại Sài Gòn, Ngài gọi tôi đến bảo: "Gia đình ông Trương Hoàng Lâu có ơn nghĩa với tôi. Hôm nay bà mất, tôi không thể đi thăm được. Vậy Thanh Từ hãy thay tôi đến tụng cho bà một thời kinh và chia buồn với gia quyến." Tuy bệnh nặng nhưng Ngài vẫn không quên ơn đàn-na thí chủ. Rõ ràng trong cuộc sống phải có ơn nghĩa. Người biết trọng ơn nghĩa mới xứng đáng đi trên con đường tu hành. Bởi vì từ khi xuất gia cho tới lúc nhắm mắt, đàn-na thí chủ nuôi chúng ta cả đời. Ơn nghĩa của Phật tử lớn lao như vậy, nếu ta không cố gắng tu, không làm lợi ích cho nhiều người thì không sao trả nổi. Cho nên, tăng ni phải cố gắng tu hành, không nên vô ơn. Ví như có người được Phật tử mời đến nhà tụng kinh, rồi lấy tiền cúng dường bỏ túi tiêu xài, cho rằng đồng tiền đó là do công tụng kinh mà được. Đó là không biết ơn thí chủ, tự nhiên sẽ hư hỏng. Phật dạy trong tứ trọng ân có ơn đàn-na tín thí. Vì nghĩ nhớ đến ơn đàn-việt mà cố gắng tu, cố gắng làm Phật sự để đền đáp. Bằng không, chúng ta sẽ lơi lỏng việc tu hành, lâu dần không còn phước đức thì chẳng biết lấy gì đền ơn cho người. Do vậy, tôi thường nói với tăng ni rằng tôi mang nợ Phật tử rất nhiều, tăng ni phải ráng tu, phụ giúp tôi làm Phật sự để cùng chia trả nợ với tôi. Vì một mình tôi e rằng trả không nổi. Đó là trách nhiệm mà người xuất gia phải thường nghĩ nhớ đến. Chúng ta không được xem thường những đồng tiền, thức ăn hay vật dụng của thí chủ cúng dường; mà phải biết quý trọng, đặt nó lên trên để cố gắng tu hành. Như vậy mới đền đáp được ơn nghĩa của người đi trước và những người đã giúp đỡ mình. Đó là điều tối quan trọng mà tăng ni cần phải ghi nhớ. 4. TÂM NIỆM BAO DUNG HÒA ÁI Hòa thượng lúc nào cũng bao dung hòa ái, ít khi thấy trên gương mặt Ngài lộ vẻ bất bình hay nói ra những lời bực dọc. Dù hạng người nào đến thăm, Hòa thượng cũng đều tiếp chuyện vui vẻ, từ tốn. Nếu có chuyện bực tức, Hòa thượng tìm cách xoa dịu, giảng hòa. Ngài luôn giữ tinh thần hòa hợp, không muốn thấy sự rạn nứt chia ly. Hòa thượng thường dạy rằng: Dụng nhân như dụng mộc, tức là dùng người như dùng gỗ. Tại sao như vậy? Hòa thượng lại nói: "Chúng ta vào rừng đốn cây, nếu cây thẳng thì đốn về làm cột, nếu cây cong đốn về làm giàn xay, nếu cong nhiều quá thì đốn về làm ách cho trâu bò." Vậy thì đâu có cây nào vô dụng. Chính con người cũng vậy, không ai là kẻ vô dụng. Mỗi người đều có cái hay cái dở, không ai toàn vẹn. Biết dùng người tức là biết dùng những cái hay, không dùng những cái dở của họ. Mỗi người có một hai điều hay, cộng lại sẽ làm nên việc lớn. Nếu cứ khư khư chỉ dùng người toàn vẹn thì cả đời cũng không có ai phụ giúp với mình. Cho nên, người làm việc lớn phải bao dung cho tất cả mọi người theo khả năng của họ, không nên vì cái dở mà bỏ cái hay của người. Nhất là những vị có trách nhiệm trụ trì phải ghi nhớ, đừng bao giờ khinh miệt người dở. Bởi vì có khi họ dở do việc mình cần không đúng với khả năng họ, nhưng với việc đúng khả năng của họ, họ sẽ hay. Người tu phải có cách nhìn bao dung rộng rãi. Đừng bao giờ khởi lên ý niệm phân biệt hoặc nói lời chia rẽ, làm cho mọi người tổn thương, đó là không tốt. Ngược lại, chúng ta phải nói những lời hay, lời hòa nhã để đời sống yên vui hòa thuận, đúng với tinh thần lục hòa trong đạo Phật. 5. NHU HÒA MÀ CƯƠNG NGHỊ Bản tánh Hòa thượng tuy nhu hòa nhưng lại rất cương nghị. Dù gặp khó khăn đến mấy, Ngài vẫn tiến tới. Khiêm tốn mà bất khuất, nhu hòa mà vững vàng. Đó là lập trường cố hữu của Hòa thượng. Tôi luôn cố gắng học theo Ngài, nhưng chưa chắc tôi đã thực hành đúng như chuẩn mực của Hòa thượng. Tăng ni Phật tử đều thấy Hòa thượng hiền hòa bao dung, nhưng khi sống gần với Hòa thượng, mới biết việc Ngài đã quyết làm thì phải làm cho đến nơi đến chốn, dù khó khăn mấy cũng không e ngại. Khi Hòa thượng về chùa Phật Quang mở Phật học đường, lớp học có khoảng ba mươi tăng ni. Nhưng vì thời chiến, một số tăng sinh phải cởi ca-sa khoác chiến bào, đến lúc tôi vào tu chỉ còn mười mấy vị. Năm 1952, rời Phật Quang lên chùa Phước Hậu, thì lớp tôi chỉ vỏn vẹn hai người: tôi và cô Trí Định. Thế nhưng không bao giờ Hòa thượng bỏ một buổi dạy nào. Cứ đến giờ học là Ngài rung chuông, giảng dạy bình thường. Ngài không cho rằng mấy chục người mới xứng đáng là một lớp học, còn một hai người thì không cần dạy. Thầy tôi đã dạy thì nhất định dạy cho hết chương trình, tuyệt đối không bỏ. Dù ít hay nhiều cũng tiếp tục làm. Hoặc khi Hòa thượng muốn dịch kinh từ chữ Hán sang chữ Việt để gầy dựng Cây thang giáo lý, thì trong mấy năm liên tiếp, Ngài luôn làm tròn đủ, không bỏ dở nửa chừng. Chúng ta nên học theo tấm gương của Hòa thượng, không nên vì gặp thuận lợi mà hăng hái, còn gặp trở ngại thì chán nản bỏ cuộc. Như vậy sẽ không làm được gì. Chúng ta đã xác quyết những gì là hay quý, thì phải làm cho đến nơi đến chốn, đừng bỏ dở nửa chừng. Tu là một việc làm phi thường mà ta còn cố gắng được, huống nữa là những Phật sự bình thường. Nếu chán bỏ thì làm sao tu được? Phải cố gắng học, cố gắng thực hiện cho được con đường mình đã vạch sẵn và quyết đi cho đến nơi đến chốn. *** Hòa thượng đã hy sinh trọn vẹn một cuộc đời cho đạo pháp và dân tộc. Từ lúc lớn khôn cho đến ngày theo Phật, lúc nào Hòa thượng cũng chỉ lo cho đạo. Ngày nay, nhiều người buồn than rằng Hòa thượng đòi hỏi, nguyện cầu hòa bình nhưng khi mặt trời hòa bình vừa ló dạng, thì Hòa thượng lại vội vã ra đi. Quý vị phải hiểu Hòa thượng làm việc chỉ vì đạo, chứ không vì quyền lợi cho bản thân hay cá nhân nào cả. Cho nên, sau khi mọi việc đã làm xong, Ngài ra đi không luyến tiếc. Mục Lục
|
Gương hạnh Thầy tôi (p3)