Nhặt Lá Bồ Đề - Tập 2
Phần V: Thơ Kệ
Trần Nhân Tông là một ông vua thương dân yêu nước, rất sùng đạo Phật từ thuở bé. Khi còn trai trẻ ông đã làm xong bổn phận với quốc dân. Đến tuổi già truyền ngôi cho con lên núi Yên Tử xuất gia học đạo. Sau trở thành Sơ Tổ phái Thiền Trúc Lâm. Xin trích vài bài thơ để chúng ta gẫm lại tinh thần đạo lý của Ngài. 1. Cư Trần Lạc Đạo Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mích Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền. Dịch: Trong đời vui đạo hãy tùy duyên Đói đến thì ăn mệt ngủ liền Nơi mình sẵn ngọc đâu tìm nữa Trước cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền. 2. Xuân Vãn Niên thiếu hà tằng liễu sắc không Nhất xuân tâm sự bách hoa trung Như kim khám phá Đông hoàng diện Thiền tọa bồ đoàn khán trụy hồng. Dịch: Thuở bé chưa từng rõ sắc không Xuân về hoa nở rộn trong lòng Chúa Xuân nay bị ta khám phá Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng. 3. Đăng Bảo Đài Sơn Địa tịch đài du cổ Thời lai thu vị thâm Vân sơn tương viễn cận Hoa kình báo tình âm Vạn sự thủy lưu thủy Bách niên tâm ngữ tâm Ỷ lan hoành ngọc địch Minh nguyệt mãn hung khâm. Dịch: Đất vắng đài thêm cổ Ngày qua xuân chửa nồng Gần xa mây núi ngất Nắng rợp ngõ hoa thông Muôn việc nước trôi nước Trăm năm lòng nhủ lòng Tựa lan nâng ống sáo Đầy ngực ánh trăng lồng 4. Chân Vọng Ông Tăng Phục lễ ở Trung Quốc đời Đường làm kệ "Chơn Vọng" để hỏi học giả trong thiên hạ: Chơn pháp tánh bổn tịnh Vọng niệm hà do khởi Tùng chơn hữu vọng sanh Thử vọng hà sở chỉ Vô sơ tức vô mạt Hữu chung ưng hữu thủy Tương hoài mộng tư lý Nguyên vị khai huyền diệu Tích chi xuất sanh tử. Dịch: Chơn pháp tánh vốn tịnh Vọng niệm từ đâu khởi Từ chơn có vọng sanh Vọng này chừng nào dứt Không đầu thì không cuối Có sau phải có trước Hằng mờ mịt lý này Mong vì khai huyền diệu Vạch ra thoát sanh tử. Quốc Sư Thanh Lương đáp: Mê chơn vọng niệm sanh Ngộ chơn vọng niệm chỉ Năng mê chi sở mê An đắc thường tương tợ Tùng lai vị tằng ngộ Cố thuyết vọng vô thủy Tri vọng bổn tự chơn Phương thị hằng diệu lý Phân biệt tâm vị vong Hà do xuất sanh tử. Dịch: Quên chơn vọng niệm sanh Ngộ chơn vọng niệm dứt Hay mê, chẳng bị mê Đâu thể hằng tương tợ Từ lâu chưa từng ngộ Nên nói vọng vô thủy Biết vọng vốn tự chơn Mới là hằng diệu lý Tâm phân biệt chưa quên Làm sao thoát sanh tử. Thiền Sư Khuê Phong đáp: Bổn tịnh bổn bất giác Do tư vọng niệm khởi Tri chơn vọng tức không Tri không vọng tức chỉ Chỉ xứ danh hữu chung Mê thời hiệu vô thủy Nhân duyên như huyễn mộng Hà chung phục hà thủy Thử thị chúng sanh nguyên Từng chi xuất sanh tử Bất thị chơn sanh vọng Vọng mê chơn nhi khởi Ngộ vọng bổn tự chơn Tri chơn vọng tức chỉ Vọng chỉ tợ chung mạt Ngộ lai tợ sơ thủ Mê ngộ tánh giai không Giai không vô chung thủy Sanh tử do thử mê Đạt thử xuất sanh tử. Dịch: Sẵn tịnh vốn bất giác Do đây vọng niệm khởi Biết chơn vọng liền không Biết không vọng liền dứt Chỗ dứt gọi là chung Khi mê nói là thủy Nhân duyên như huyễn mộng Nào chung lại nào thủy Đây là nguồn chúng sanh Tột độ ra sanh tử. Chẳng phải chơn vọng sanh Mê chơn nên vọng khởi Ngộ vọng vốn tự chơn Biết chơn vọng liền dứt Vọng dứt tợ rốt sau Ngộ ra dường mới đầu Mê ngộ tánh đều không Đều không chẳng sau trước Sanh tử do mê này Đạt nó ra sanh tử. Thiền Sư Huệ Hồng, Tự Giác Phạm đáp: Chơn pháp tánh bổn tịnh Tùy duyên nhiễm tịnh khởi Bất liễu hiệu vô minh Liễu tri tức Phật trí Vô minh toàn vọng tình Tri giác toàn chân lý Đương niệm tuyệt cổ kim Để xứ tầm chung thủy Bổn tự ly ngôn thuyên Phân biệt tức sanh tử Dịch: Chơn pháp vốn không tánh Theo duyên nhiễm tịnh khởi Chẳng rõ gọi vô minh Rõ đó là Phật trí Vô minh thảy vọng tình Tri giác đều chân lý Đương niệm bặt cổ kim Tột chỗ tìm chung thủy Vốn tự lìa nói bàn Phân biệt liền sanh tử. Mục Lục
|