Thiền Tông Việt Nam
Nấc Thang Tiến Đạo
Nói Với Chư Tăng Ni

Kính thưa đại chúng, hôm nay nhân Lễ Tất niên, tôi có một vài chia sẻ và nhắc nhở sự tu học của chư Tăng Ni trong một năm qua. Từ đó huynh đệ rút tỉa kinh nghiệm để việc hành trì trong năm mới được tốt đẹp hơn.

Chư huynh đệ ở đây có một nhân duyên rất tốt là luôn được những người thầy, người huynh đệ hết lòng kề cận một bên, lúc nào cũng sẵn sàng nhắc nhở, động viên, để chúng ta theo kịp nếp sinh hoạt tu học của Thiền viện. Tìm được những người thầy, người bạn như vậy thật hiếm. Quý Sư cô theo Hòa thượng Ân sư tu tập nhiều năm, đã có sự trải nghiệm tốt trong công phu, luôn kích dương hướng tiến cho đại chúng từng bước đều đặn hòa vui tu học. Tâm nguyện, hành động của các vị thể hiện rõ ràng như vậy. Bây giờ chỉ còn phía đại chúng thôi. Qua những nhận định, trình bày ngắn gọn của Thầy Phó tự bên viện Tăng và Sư cô Trụ trì bên viện Ni, tôi thấy được sự tiến bộ, cố gắng của chư huynh đệ.

Nhìn lại đại chúng hầu hết là tuổi học trò, do vậy kiến thức cơ bản cơ thể nói là tương đối cân bằng, rất dễ sắp đặt chương trình tu học nền tảng ban đầu. Một khi nền tảng đã vững vàng thì việc tu học sẽ dễ tiến. Trong học đường ngày xưa, các vị chịu trách nhiệm rất lo lắng ở điểm này. Các Phật học đường hầu hết có đến mấy trăm vị, như Học Viện Huệ Nghiêm thuở ấy trên 300 vị, trong đó có nhiều lớp. Chúng lớn nhất của trường là chúng Mã Minh, tiếp đến là chúng Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, Huyền Trang, Vạn Hạnh, Nguyên Thiều, Liễu Quán và Hư Vân. Tôi ở trong chúng Mã Minh, anh em sắp mãn khóa, học lâu rồi các chúng kia mới tới. Chúng Hư Vân là chúng nhỏ nhất. Chúng Huyền Trang, Vạn Hạnh đi học ở trường Bồ Đề, chúng Mã Minh và các chúng còn lại đều học tại chỗ. Ngoài các vị Giảng sư trong trường, Ban Giám Đốc còn mời thêm các Giáo sư bên ngoài về dạy. Vì số lượng Tăng sinh đông đảo như vậy nên sinh hoạt ban đầu hết sức vất vả, nhưng quý Hòa thượng trong Ban Giám hiệu đã sắp đâu yên đó.

Lớp Mã Minh có nhiều vị chúng lớn như cụ Phước Hảo, cụ Đồng Huy đã từng làm chúng trưởng trong Phật Học đường Nam Việt Ấn Quang, các Ngài luôn ngồi hàng đầu của lớp. Học viện Huệ Nghiêm là hậu thân của Phật Học đường Nam Việt Ấn Quang. Hồi đó, Hòa thượng Ân sư cùng quý Hòa thượng Thiền Tâm, Bảo Huệ cũng là Giảng sư của Đại học Vạn Hạnh. Ngày nào Thầy cũng đi dạy ở Vạn Hạnh, nên 1 giờ Thầy đã có mặt trên lớp rồi. Giờ thọ trai chúng tôi đi ngang, Thầy kêu lại dặn dò: "Báo cho chúng hay, chiều Thầy còn đi dạy ở Vạn Hạnh nên lên lớp học sớm nghe". Đúng 1 giờ, Thầy cầm bài vở lên bàn rồi, dưới này chúng tôi người còn dụi mắt, người mới thức dậy, vừa đi vừa mặc áo, có người vắt áo trên cổ, bước vô lớp tơi tả hết. Thầy ngồi nghiêm như hổ tướng, mấy cụ lớn hàng đầu sợ lắm. Nhưng khi vào giảng, Thầy cười lên thì mọi sự căng thẳng không còn nữa, Thầy trò đều vui vẻ. Hồi đó tôi ngồi hàng hai hàng ba, Thầy hỏi gì dù trúng dù trật tôi vẫn cứ nói, tạo một sinh khí vui tươi cho cả lớp. Người nào Thầy kêu tới cứ ấp úng hay không muốn nói dễ bị rầy lắm.

Tôi kể lại chuyện này để làm chi? Để kích dương tinh thần của chư huynh đệ, phải luôn cố gắng. Vừa nghe đánh kiểng là thức dậy liền. Hồi đó tôi hay để sẵn sách vở, ca nước trên bàn. Thức dậy nước uống lẹ rồi mặc áo, cầm sách lên lớp liền, nhanh như vậy đó. Chứ ngồi dậy mà còn rũ rượi, đi rửa mặt thiệt là lâu, rồi lấy nước uống mất hết thời gian. Đây cũng là một việc làm đòi hỏi phải cố gắng, tập thói quen mau mắn lẹ làng, siêng năng phấn phát mới được. Về điểm này chư huynh đệ nên noi gương các bậc thầy xưa, không nên chểnh mảng trong các giờ tu học.

Việc ngồi thiền của đại chúng, quý Thầy quý Sư cô còn phải nhắc nhở động viên nhiều, nhưng thực ra như vậy mới tiến. Tôi biết rõ chư huynh đệ ngồi thiền còn đau chân lắm, nhưng cố gắng một thời gian chúng ta sẽ vượt qua khó khăn này. Ngày xưa Hòa thượng dạy: "Chừng nào mấy chú ngồi hết đau, muốn nghỉ Thầy cho nghỉ". Thật ra không bao giờ ngồi hết đau. Tại sao? Chúng tôi ngồi 1 tiếng vừa quen, Thầy cho lên hơn 1 tiếng. Ngài nhấc lên hoài, cái chân nào mà theo nổi. Cuối cùng tôi thưa:

- Thưa Thầy, chúng con chạy theo Thầy không kịp.

- Ráng đi, ráng đi. Chừng nào ngồi được 2 tiếng, Thầy cho nghỉ.   

Lạ thay, tới lúc ngồi thiền được 2 tiếng rồi thì chúng tôi lại không muốn nghỉ, nó khỏe làm sao. Quý vị có tin không? Khỏe thật đó. Nhất là thời gian tôi nhập thất trên núi 3 năm, khoảng một năm rưỡi, việc ngồi thiền trở nên dễ dàng, chỉ cần lấy tay kéo chân trái lên, thế là chân phải tự lên theo, lấy tay sửa nhẹ vạt áo là bắt đầu tọa thiền. Cứ vậy mà ngồi không hề xả chân, hôm nào dấy niệm, muốn lao theo nó chơi thì cục kịch nhúc nhích một chút. Ở Chân Không là núi non, thiền đường xoay hướng về phía Đông, xế chiều gió mát ngồi rất khỏe.

Chư huynh đệ tu thiền phải cố gắng ngồi thiền thôi. Thật ra ngồi thiền chưa phải là thiền sư nhưng muốn làm thiền sư thì phải ngồi thiền. Điều đó là giáo lệnh của Hòa thượng Ân sư. Có thiền sư nào mà không biết ngồi thiền. Già như tôi đây mà những lúc thấy gò má phỉnh phỉnh, Hòa thượng nghiêm mặt hỏi: "Có ngồi thiền không?". Đủ biết Hòa thượng kiểm soát chặt chẽ việc ngồi thiền của chúng Tăng đến mức nào. Tôi nhớ hồi còn ở Chân Không, thầy Thiện Năng, thầy Thiện Ấn ngồi thiền giỏi lắm, có thể ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ. Thời gian về trụ trì Quan Âm Các, không biết sao thầy Thiện Năng bị bệnh phổi trở lại. Hòa thượng chưa hay tin này nên nhắc nhở anh em mỗi khi chúng tôi có bệnh:

- Thầy Thiện Năng bệnh phổi ngồi thiền hết bệnh, bây giờ mấy chú ngồi thiền tại sao lại bị bệnh?

Thật là một câu hỏi bất ngờ. Hòa thượng hỏi xong, thầy Thiện Năng đứng lên thưa:

- Thưa Thầy, lâu nay con không có ngồi thiền.

Hòa thượng quở:

- Tôi bệnh phổi, ngồi thiền hết bệnh. Tôi dạy mấy chú ngồi để trị bệnh, vậy mà mới xuống núi làm thầy đã không chịu làm thiền.

Tôi cũng xin nhắc nhở chư huynh đệ điều này, chúng ta ngồi thiền điều hòa được huyết mạch, thân tâm thư thái, có sức chịu đựng thì những vui buồn sẽ giảm thiểu, nó không tấn công mình được. Nếu sức chịu đựng yếu kém thì chuyện vui buồn dễ tấn công lắm. Ví dụ một buổi chiều mấy huynh đệ nghe cú điện thoại ở phòng khách cho hay bố mẹ bệnh, nếu mình không có đạo lực, nghe vậy tự nhiên bủn rủn.

Nếu nghĩ kỹ lại, bố mẹ bệnh thì giờ mình làm gì đây, về cũng loay hoay vậy thôi chứ có làm được gì. Trước nhất từ chùa về tới nhà cũng phải mất một thời gian, thất thoát quá trình tu học. Về rồi chưa chắc làm được gì, vậy mà đa số lại nhiệt tâm về chuyện đó. Nghe tin tự nhiên buồn dào dào, không muốn ăn, không muốn ngủ. Khi nào công phu ngồi thiền được chừng một tiếng rưỡi, hai tiếng thì những buồn phiền tạp nham ấy không làm gì được chúng ta. Chư huynh đệ ráng lên, sau một thời gian tu học sẽ thấy những điều tôi nói không sai đâu.

Nhiều năm về trước, trong chuyến đi Hà Nội với Hòa thượng, tôi bị bệnh rất nặng. Trèo lên chùa Đồng trở về, khớp mắt cá chân bị viêm nên đi không được. Phật tử đón bác sĩ ở bệnh viện Bạch Mai xuống chích thuốc, làm đủ thứ chuyện nên nhẹ bớt đôi chút, tôi có thể tham dự được Đại hội Phật giáo tại Hà Nội. Về Nam, tôi vô Thủ Đức trị bệnh, sau này nó yên nhưng cái khớp to hơn giống như dị dạng, mất một thời gian ngồi thiền nhưng tôi kiên quyết không bỏ. Thay vì ngồi kéo hai chân kiết già tôi ngồi bán già, chân trên chân dưới hoặc ngồi xếp bằng. Tuy giữ được giờ tu nhưng vẫn thua đại chúng, vì không kéo chân trái lên được, do cái khớp chấn thương bên trong, đau dữ lắm.

Lần bệnh thứ hai, tôi nhập viện mổ sạn thận, Hòa thượng vô thăm, Ngài nói:

- Hồi đó chắc chú cũng mổ xẻ người ta dữ lắm nên bây giờ mới bị như vậy.

Ngài chỉ nói một câu thế thôi rồi ra về, nhưng đã khiến cho tôi thức tỉnh. Tôi biết đây là quả báo của mình. Vì vậy tôi cố gắng ngồi thiền dù thân bệnh, không ngồi được một giờ thì cũng được nửa giờ hay 45 phút. Đau thì đau nhưng bữa nào mằn mằn thấy được là kéo lên liền. Khi Hòa thượng gọi tới hỏi, tôi thật lòng thưa:

- Chú có ngồi thiền không?

- Dạ có. Nhưng hễ đau quá thì con kéo ra.

- Ừ, nhưng đừng có bỏ.

Hòa thượng dạy, ngồi thiền huyết mạch điều hòa thì thân tâm theo đó cũng điều hòa. Tu hành thân hòa tâm hòa, đó là một bước tiến vững trong nội tại. Nội tại vững rồi thì bất cứ sự kiện nào xung quanh không làm gì mình được hết. Do vậy có người nói mấy thầy tu thiền nhiều khi vô duyên, người ta đang khóc mấy thầy lại cười. Như gặp đám ma, người ta khóc bù lu bù loa còn thầy đứng cười, họ nói mình điên. Thật ra ta đâu phải điên, do nội tại bình lặng nên thấy mọi chuyện cũng bình lặng.

Cho nên chư huynh đệ cố gắng. Thời gian tập ngồi thiền từ một tiếng tới một tiếng rưỡi quý vị đã lướt qua được. Người xưa dụng công trong vòng 6 tháng thì thành tựu được pháp ngồi thiền, mà người xưa khắc khổ hơn chúng ta nhiều. Như Hòa thượng Chủ tịch Phật giáo bây giờ ngồi thiền không cần tọa cụ, bồ đoàn, ngồi một cách tự nhiên mà lưng vẫn thẳng như thường. Ngài nói xương sống là cột trụ, nó ngay thẳng thì nhà mới vững. Ngài ngồi đọc sách cũng vậy, ngay thẳng nghiêm trang. Có lần tôi đến thưa hỏi, đứng một bên mà Ngài vẫn ngồi im, cả tiếng đồng hồ không nói với mình câu nào, không biết là đang ngồi thiền hay đọc sách nữa. Rất lâu sau Ngài mới hỏi: "Có chuyện gì, nói Thầy nghe". Tôi thưa xong, Ngài đuổi đi liền chứ không vui vẻ tiếp chuyện. Mỗi vị thầy đều có một phương pháp giáo hóa riêng.

Hòa thượng Ân sư dạy, ngồi thiền từ một tiếng rưỡi vượt lên hai tiếng không có gì khó khăn hết. Cho nên chư huynh đệ cố gắng, ngồi thiền được nề nếp, thư thái, an nhiên rồi thì trên nét mặt mỗi thiền sinh đều có biểu hiện niềm vui lưu xuất từ nội tâm. Niềm vui đó cũng có thể được như niềm vui của Tổ Ca Diếp trong hội Linh Sơn, khi nhìn thấy cành hoa sen Đức Phật đưa lên. Công phu tọa thiền thành tựu rồi thì niềm vui sẽ biểu hiện tròn đầy, rõ ràng trên ánh mắt và dần dần thấm qua dáng vẻ đi đứng nói năng. Hòa thượng Ân sư nói giản dị tu là hiền, còn cãi cọ, còn gân cổ là dữ, chưa thành tựu. Tôi nói lại, ngồi thiền được chưa phải là tu thiền, nhưng tu thiền phải ngồi thiền được. Sự thành tựu thể hiện rõ trên nét mặt, trong nội tâm. Pháp môn nào Phật dạy cũng đều hướng dẫn chúng ta tu hành có định có tuệ, không chỉ ngồi thiền, ngoài ngồi thiền cũng có thể áp dụng cách khác. Điều cốt yếu là thể hiện được đạo hạnh nghiêm túc, gương mặt tươi vui, nhẹ nhàng thoải mái, trong sáng. Đó là những nét đẹp của người tu. Có được những nét đẹp này là từ công đức tu hành mà ra.

Trong sinh hoạt tu học, chư huynh đệ nên vui vẻ chia sẻ tất cả công việc với nhau. Có người chịu nhọc thay mình làm việc thì nên vui hòa với huynh đệ, để mọi việc trong Thiền viện được ổn định. Đừng gây sự khó khăn cho huynh đệ, không nên có thái độ bất kính với những vị có trách nhiệm. Đây là kinh nghiệm tôi nhận ra trong quá trình tu học nhiều năm. Chúng ta nhìn gương các vị chúng trưởng, liên chúng trưởng, giám thị, giám đốc mà học theo. Tới giờ đi ăn, đi học, làm việc, chúng ta sốt sắng tham gia, không thụ động, không làm lấy có, phải nhiệt tâm. Như thế biểu hiện sự thuần hòa, biểu hiện đạo hạnh, công đức của một người biết tu.

Trong sử kể lại câu chuyện Ngài A Na Luật bị mù. Từ một lời quở nhẹ của Đức Phật mà Ngài gắng gổ tu tập đến mức hai mắt bị hư, chẳng bao lâu sau Ngài chứng Vô sanh quả. Điểm xoáy sâu nhất làm nên sự thành tựu này chính là lòng hổ thẹn. Kể từ khi Ngài siêng năng tu học không lười mỏi, con mắt thịt tuy mù, nhưng huệ nhãn của Ngài đã nhìn thấu suốt mọi vật rõ ràng như nhìn trái xoài trong lòng bàn tay. Người tu hành có mất mát gì đâu, hư con mắt thịt thì được con mắt Phật. Giả tỉ ngồi thiền mà đi khập khễnh, nhưng chắc chắn mai kia mốt nọ mình có đôi chân vững chãi, đi đứng nhẹ nhàng, sau khi bỏ thân này rồi được thân khác tốt đẹp hơn, có gì đâu buồn sợ, cứ vui vẻ mà tu.

Có một điều đặc biệt, khi huynh đệ về tu đông đảo như vầy, tôi và các vị có trách nhiệm tại Thiền viện không biết làm sao lo nổi vấn đề đời sống. Nhưng không ngờ Tam Bảo gia hô, nhờ phúc trí của Hòa thượng Trúc Lâm, công đức của đại chúng nên chúng ta vẫn an ổn, đời sống vật chất cũng như tinh thần vừa đủ. Quang trọng là chư huynh đệ có tu thì chánh báo và y báo đều tốt đẹp, nếu không tu sẽ không được như thế. Cho nên tất cả đều phải cố gắng thường xuyên như vậy, chứ không phải một ngày tu ba ngày nghỉ. Nhân đây tôi nhắc lại bài kệ của thiền sư để sách tấn huynh đệ sang năm mới tu hành tốt hơn:

Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy,

Nhạn vô di tung chi ý,

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Dịch:

Nhạn bay trong không,

Bóng in đầm lạnh,

Nhạn không ý để bóng, 

Đầm chẳng tâm lưu hình.

Bài kệ này có hai ý. Thứ nhất "Nhạn vô di tung chi ý" là nhạn bay qua đầm lạnh không có ý lưu bóng trong đó. Nếu lưu lại nó sẽ bị chìm, bị lạnh và chết cóng. Việc tu hành của chúng ta cũng như vậy, không lưu lại dấu vết gì, chỉ mượn thân huyễn nhà mộng để thành tựu đạo nghiệp. Thứ hai "Thủy vô lưu ảnh chi tâm", nước trong đầm cũng không muốn giữ bóng nhạn. Cánh nhạn bay qua rồi thôi, đầm nước trong vẫn là đầm nước trong, không hề lưu dấu nhạn. Tâm là tâm, cảnh là cảnh. Tâm cảnh không dính nhau, không chìm lặng tức tâm cảnh như như. Đó là đạo.

Chư huynh đệ nhận được chỗ này thì phấn khởi, không có gì khiến chúng ta phải mắc mứu, ôm giữ và chìm trong đó. Thực sự mình còn dở lắm, điều tốt giữ đã đành, nhưng điều không tốt cũng ôm hoài không bỏ được, thiệt là khổ. Giả tỉ mình hờn người nào đó, thay vì hờn một lát thôi rồi vui vẻ lại, nhưng mình cứ hờn hoài, không đúng với lời dạy của người xưa "Tăng hận bất cách túc", nghĩa là làm Tăng giận không được quá một đêm. Sao không tự hỏi giận để làm gì đây? Cho khổ, cho mệt, chớ được cái gì. Cho nên đã biết tu rồi nhất định phải bước qua được những điểm dở này.

"Nhạn vô di tung chi ý, thủy vô lưu ảnh chi tâm" là một bài học quý báu cho chúng ta. Người tu cần phải sống sao cho tâm cảnh như như mới thể nhập được đạo. Đó là tinh thần trong nhà thiền, sáu căn không dính mắc không chạy theo sáu trần, không để trần cảnh kéo lôi. Trần cảnh là trần cảnh, ta vẫn an nhiên tự tại. Một khi sức định phấn phát rồi thì tuệ giác hiện tiền, điều này tất nhiên như vậy. Biết rõ thế ấy, nhưng nếu mình cứ ôm giữ phiền não hoài thì dù tu vài ba mươi năm cũng chưa vào được cửa. Không biết buông thì không giải thoát, không hết khổ đau, không chấm dứt được sự hiện hành của vọng tưởng.

Nếu thực sự lòng yên lắng, phút giây nào đó lóe lên, chúng ta sẽ thấy thống khoái vô cùng. Có một thiền sư Nhật Bản biểu hiện sự an lạc nhi nhiên của mình bằng cách ai nói gì Ngài cũng đáp "Thế à!". Bây giờ chúng ta cố gắng vâng lời Hòa thượng Trúc Lâm dạy bỏ hết những cù cặn, chấp thủ, tăm tối, mạnh dạn tống nó ra. Nó ra được mình mới nhẹ nhàng tiến tu. Thấm đượm niềm vui từ việc tu tập, tự nhiên chúng ta quý trọng nhau còn hơn cha mẹ anh em ruột thịt. Bởi mình không có cha mẹ ở đây nên Phật pháp, huynh đệ, tỉ muội chính là cha mẹ mình, pháp tu là sự sống tại đây bây giờ.

Huynh đệ không có người nào nói con tu để khổ cả, phải không? Ngày xưa khi tôi tu học trên núi, có người lên thăm, lúc về họ nói:

- Thầy ơi, ở dưới phố sướng quá, lên núi tu chi cho khổ vậy?

Tôi vui vẻ cười:

- Thôi đi về đi.

Huynh đệ chúng ta dù lớn dù nhỏ, mới vào đạo hay đã tu lâu, học cao hay học thấp, ai cũng muốn tu để được thành Phật, để được hết khổ. Khổ đây là khổ luân hồi sanh tử chứ không phải khổ thiếu cơm áo. Ai nấy đều hun đúc tâm nguyện hướng tới thành tựu giác ngộ giải thoát. Muốn thành tựu đạo nghiệp như bản nguyện, chư huynh đệ phải cố gắng nhiều, không phải ngang mức nào đó rồi thôi. Những chuyện nhỏ nhặt chung quanh sinh hoạt đâu có gì phải lưu tâm. Quý Thầy, quý Sư cô dạy bảo nhắc nhở điều gì nên vui vẻ làm theo, không nên buồn phiền. Bỏ hết buồn phiền đi. Bỏ chưa được thì ráng tập bỏ cho được. Tập riết thành quen, bỏ sẽ dễ thôi. Chúng ta thấy trăm năm ngàn năm, sự có mặt ở đây rồi mất. Luân hồi sanh tử cũng chỉ bao nhiêu đó chuyện, ăn mặc, tạo nghiệp... đại khái vậy thôi không có gì khác. Bây giờ biết những thứ đó là đồ bỏ, ta buông. Học theo lời Phật, áp dụng tu hành để được định, được tuệ, không để phiền não kéo lôi mình nữa.

Tu hành phải có đạo lực. Thiền sư Hoàng Bá là một Thánh tăng, chỉ nghe câu hỏi lại từ thầy mà Ngài nhận được ý chỉ Tổ sư. Từ khi đi xuất gia cho tới lúc thành tựu, Ngài chưa một lần về thăm mẹ. Bà mẹ thương nhớ quá bày ra một quán trà gần bến đò, mong rằng trong số những người khách qua đò, có con trai của mình và bà sẽ được gặp Ngài, được trải lòng thương của mẹ đối với con. Sau này khi bị mù, bà không còn hy vọng thấy được Ngài nữa thì lại có một hạnh phúc khác. Những người khách đến nghỉ trong quán trọ bà xin được rửa chân, lau chân cho họ, bởi bà hy vọng sẽ tìm ra con trai qua vết dấu bàn chân.

Hôm đó, Ngài vào quán trọ ngồi nghỉ và cũng để chân cho bà lau. Đến chỗ có dấu vết riêng Ngài từ chối không cho lau, đứng dậy đi mau. Ngài đi rồi, những người xung quanh cho bà cụ biết ông thầy vừa ra đi chính là con của bà. Bà vội vàng chạy theo kêu: "Con ơi, con ơi, dừng lại cho mẹ thăm một chút". Tấm lòng của người mẹ cao cả như vậy. Bà vẫn cứ chạy mặc dù không thấy đường, nhưng Ngài không hề dừng lại. Bà chạy hoài chạy hoài cuối cùng ngã xuống sông. Biết mẹ gặp cảnh như vậy, Ngài trở lui lo chuyện hậu sự cho bà. Đứng trước quan tài của mẹ, Ngài nói "Nhất nhân thành đạo cửu huyền thăng", nghĩa là một người tu hành đắc đạo thì cha mẹ chín đời được sanh cõi trời. Nếu thực sự lời này đúng thi ứng nghiệm kim quan bà cụ bay lên. Ngài nói xong kim quan bà cụ từ từ bay lên.

Nếu không phải là người thành tựu đạo lực mạnh mẽ như Ngài Hoàng Bá, đã thực sự giác ngộ giải thoát thì làm gì có chuyện đó. Cho nên người con chí hiếu là lo tu hành thành đạo, đó mới quan trọng, chứ chuyện thăm hỏi an ủi không quan trọng. Người con Phật báo hiếu cho cha mẹ bằng đạo lực, chứ không bằng nghiệp lực thường tình của chúng sanh. Tu mà tâm thanh tịnh là dẫn đến điềm lành thụy ứng.

Hàng ngày huynh đệ được tu học trong khung cảnh thanh tịnh thế này, chắc chắn tâm chúng ta cũng tịnh hóa phần nào. Giả tỉ như có ai còn lớ ngớ, chưa thanh tịnh thì biết cấu nhiễm bên trong còn nhiều, ráng lên một chút để theo kịp huynh đệ. Trong 100 vị sư huynh hoặc 100 sư tỉ, mỗi vị có một hạnh riêng, mình nhắm xem ai tốt có thể học hỏi thì nên gần gũi. Ví dụ, sư tỉ này nấu cơm ngon, làm tất cả công việc tốt, giao ban hoàn chỉnh, hôm nào gặp sư muội lười nấu cơm, sư tỉ đó sẵn sàng gánh hết mà vẫn vui vẻ. Mình thấy vị này hy sinh, là người thật tâm, vì thế mình nương sư tỉ này học tập. Cuộc sống tu hành cần trên có thầy dưới có bạn, như người ta nói "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn" là vậy. Điều quan trọng là đừng bao giờ thấy không vừa ý ai hết. Hòa thượng Trúc Lâm dạy cuộc sống tương đối, trong một trăm điều xấu cũng có ít nhất vài điều tốt, chúng ta nhắm điều tốt mà học thì đời sống an ổn.

Tôi rất mong chư huynh đệ trong đạo tràng Trí Đức, bên Tăng cũng như bên Ni luôn luôn cực lực phát huy ý chí tu học của mình. Khi ý chí được phát huy rồi thì không nói sợ ma, không nói ngồi thiền ngủ gục hay sợ bất cứ việc gì khác, huynh đệ sẽ trưởng thành từ những khó khăn ban đầu. Trước chúng ta đã có những vị Bồ-tát xông pha vào đời và đã thành tựu đạo nghiệp. Trong thời đại của chúng ta cũng có rất nhiều bậc Tổ, bậc Thầy thành tựu công phu mỹ mãn. Huynh đệ được sống trong thời đại đủ duyên đủ điều kiện, văn hóa phong phú, tất cả những điều đặc biệt này là nhân tố đưa đến sự thành công.

Tuy sống trong đạo tràng ở vùng quê như thế này, nhưng mỗi ngày chúng ta tập thành tựu đạo hạnh cho chính mình, đó cũng chính là thành tựu cho Phật pháp. Huynh đệ cố gắng gầy dựng một đời sống đạo lý sáng suốt, mang lại cho mình và mọi người niềm an vui chân thật, lớn lao. Rất mong đại chúng tu hành tinh tấn, kiên quyết thực hiện cho được sự nghiệp lợi mình lợi người, để đền đáp công ân vô lượng của Phật Tổ và không cô phụ tấm lòng của đàn na tín thí. 

Mục Lục