Thiền Tông Việt Nam
Phật Ở Trong Tâm - Hạnh Chiếu
6. Sống Tỉnh Thức

Chúng ta học Phật, đọc kinh Phật rất nhiều, như bản kinh Bát-nhã ngày nào cũng đọc, nhưng có thế nói chúng ta vẫn chưa thuộc bản kinh ấy. Hòa thượng Ân sư chúng tôi có đôi câu thơ:

Một bài tâm kinh học hoài không thuộc,

Con đường độc hành đi mãi không cùng.

Ngài nói Ngài không thuộc bài tâm kinh đó trong khi chính Ngài là người dịch bản kinh cho chúng ta đọc, học. Như vậy thế nào mới gọi là thuộc? Trong kinh nói Bồ Tát Quán Tự Tại khi hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách. Ta có thể đọc vanh vách như thế nhưng vẫn không được xem là thuộc Bát-nhã, Tại sao? Một câu nói, một hình ảnh, một cử chỉ làm ta phiền não không thể ăn nổi, ngủ nổi đi nổi, chứng tỏ ta thấy năm uẩn đều có, chớ chẳng phải đều không. Mỗi đêm ta lên chánh điện đọc năm uẩn đều không mà trong tâm tư lại thấy năm uẩn có thật. như vậy đâu thể nói thuộc kinh.

Thuộc kinh không phải đọc vanh vách, thuộc kinh là sống được với lời Phật dạy trong kinh. Làm sao ta biến lời kinh thành chất liệu sống cho chính mình. Kinh là một người thầy rất minh triết, rất trí tuệ. Kinh là những lời Phật Tổ hoặc Thiện hữu tri thức, minh sư… chỉ dạy. Các Ngài trải qua sự tu tập thăng trầm cũng buồn, cũng vui, cũng khắc khoải, cũng đau khổ… cuối cùng các Ngài tìm cách vươn lên khỏi những tâm trạng đó và dạy lại cho chúng ta kinh nghiệm tu hành vô cùng quý báu.

Chư Thánh hiền, chư Tổ sư cũng là những con người bằng xương bằng thịt, có trái tim và có khối óc như chúng ta, nhưng các Ngài vượt lên trên được những nghiệp tập của chúng sanh. Người trước kẻ sau đi qua những đoạn đường như nhau, cho nên lời kinh là lời tâm tình rất chí thiết, rất hiện thực. Thầy cũng khổ như tụi con, nhưng thầy đã cố gắng tu tập để thoát khổ. Thầy tin chắc các con cũng nhận ra vì chính các con cũng khổ như thầy. Hy vọng các con đọc lại những kinh nghiệm của thây, các con sẽ có cách sống thoát ra khỏi nỗi khổ của mình. Cho nên đọc kinh là để tỉnh thức, để tu tập, chớ không phải đọc để có kiến thức hay đọc cho có đọc.

Có câu chuyện thế này: Một người nọ chiêm bao, thấy mình đi đến phỏng vấn Thượng đế. Vừa thấy anh, Thượng đế hỏi:

- Anh từ đâu đến?

Anh trả lời:

- Bạch Ngài, con ở dưới trần gian lên đây.

- Đến đây có việc gì?

- Con nghe nói Thượng đế rất sáng suốt, phân minh, nên con lên đây xin hỏi Thượng đế một điều.

- Ta không có thì giờ, muốn hỏi thì hỏi vắn tắt thôi. Hỏi nhanh đi.

- Tâu Thượng đế, Ngài là vua cõi trời, cặp mắt của Ngài nhìn xuống trần gian, chắc chắn là thấy hết tụi con, thưa phải không ạ?

- Dĩ nhiên rồi.

- Muôn tâu Thượng đế, vậy thì đối với Ngài, tụi con có điều gì làm Ngài ngạc nhiên nhất?

- Xưa nay ta cũng có suy nghĩ này, nhưng từ trước đến giờ không có nhân vật nào ở trần gian hỏi ta. Sẵn hôm nay ngươi lên đây, không phải là ngươi hỏi ta, mà là ta hỏi ngươi. Có ba điều ta rất ngạc nhiên về loài người ở trần gian.

Thứ nhất, tại sao suốt cuộc đời, họ vắt kiệt sức lực để làm ra tiền, rồi lấy hết số tiền đó phục hồi sức khỏe?

Thứ hai, tại sao con nít ở trần gian, chúng mong cho mau lớn. Khi lớn chúng mong cho thành đạt. Khi thành đạt chúng mong được nghỉ ngơi ở tuổi già. Khi già chúng mong cho trẻ lại thời thơ ấu?

Thứ ba, tại sao người ở trần gian thấy cuộc sống diễn ra một cách bình thường, sống như thể chưa bao giờ chết, mà thật ra họ đã chết như chưa bao giờ sống?

Anh đáp:

- Té ra con lên đây để cho Thượng đế phỏng vấn con! Con định hỏi Thượng đế ngạc nhiên về con người ở trần gian những điểm gì? Nào ngờ điều Ngài hỏi còn làm con ngạc nhiên hơn nữa. Té ra tụi con sống như vậy sao?

- Vậy thì điều ngạc nhiên thứ tư của ta là người trần gian sống mà họ không hiểu mình đã sống như thế nào?

Câu chuyện này đánh thức chúng ta rất nhiều. Con người không bao giờ vừa lòng với cuộc đời, với hiện cảnh của mình, lúc nào cũng mong muốn điều gì đó. Khi chưa thành đạt ta muốn thành đạt, khi thành đạt rồi ta cảm thấy chưa đủ mà còn thiếu thiếu cái gì. Ta lại tiếp tục muốn nữa, muốn cho tới lúc được mọi thứ rồi, ta cảm thấy mệt mỏi chán nản. Như vậy cả cuộc đời con người sống bất như ý, sống khổ. Sở dĩ như vậy là do chúng ta không tỉnh thức. Bao giờ chúng ta nhận ra mình đã lầm thì hết lầm. Đó là sống tỉnh thức.

Sống tỉnh thức không có nghĩa là chúng ta muốn nghịch cảnh đừng xảy ra nữa mà là đối diện với nghịch cảnh hay thuận cảnh, tâm bình thường, không dao động. Người sống tỉnh thức hằng thấy hằng biết bằng trực giác, chớ không dùng ý thức phân biệt. Khi thấy khi nghe, tâm không phân biệt phải quấy đúng sai, thì không bị bất như ý. Đó là cách dụng công của những vị đã có công phu thuần thục chuyên sâu. Người chưa được như thế, khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng nên quán nhân quả. Mỗi người có một phước duyên, chúng ta biết được luật nhân quả, dễ dàng chấp nhận cuộc sống hiện tại, dù trong cảnh nào cũng chịu đựng được, vì biết phước duyên của mình tương ứng như thế.

Phật nói chúng sanh vì si mê, theo đuổi dục vọng không biết chán nên cứ không vừa ý. Như người bị ngứa càng gãi càng ngứa. Gãi đến tróc da chảy máu mà buông ra vẫn cảm thấy ngứa. Khi muốn một cái gì, chúng ta tưởng tượng nếu được như ý sẽ vui lắm, nhưng được cái này lại muốn cái khác. Thêm một cái nữa là trưởng dưỡng lòng tham, càng chồng chất si mê. Muốn mà không được thì khổ, nhưng nếu được càng khổ hơn vì phải giữ gìn. Nó mất đi lại càng khổ dữ. Cho nên nhà giàu cũng khổ, nhà nghèo cũng khổ, tốt hơn hết không muốn là khỏe nhất.

Sơ tổ Trần Nhân Tông trước khi đi tu Ngài là quân vương. Trong cuộc đời thế gian quân vương là tột đỉnh. Địa vị tột đỉnh, giàu sang tột đỉnh, uy quyền tột đỉnh mà nhà vua đã từ giã mọi thứ tột đỉnh ấy để làm một ông tăng nhàn đầu núi, vô sự, vô sản. Sau khi làm tròn nhiệm vụ với quốc dân, tròn bổn phận với gia đình, Ngài trao ngôi cho con là Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng. Nửa ngày làm việc để dạy cho vua con biết cách trị dân trị nước, còn nửa ngày dành thì giờ tu hành. Được một khoảng thời gian, sau đó Ngài trao hết vương quyền cho con, trở thành một sơn tăng sớm ở đầu núi, tối cuối ghềnh.

Khuất tịch non cao,

Náu mình sơn dã,

Đêm ngày hương hỏa,

Quét tước đài hoa…

Lên Yên Tử, Ngài tu hạnh đầu-đà, không có một nhu cầu vật chất nào. Đi thì đi bộ, mặc thì mặc vải thô. Đối với Ngài “Nửa gian lều quý nửa thiên cung”, tức là nửa gian nhà tranh quý hơn nửa cung vàng điện các. Chỉ có bậc trí tuệ như vua Trần Nhân Tông mới dám đánh đổi một đời sống đế vương để lấy một đời sống tăng vô sự. Nếu là chúng ta, mình sẽ chọn đời sống nào? Đời sống nào cũng không vô nổi, nhưng đứng trên mặt lý giải mà nói, một bậc trí tuệ như vua Trần khi đã chọn lựa, dĩ nhiên phải chọn lựa đúng đắn. Thế thì đời sống sơn tăng hẳn là phải hơn đời sống đế vương rồi. Có thế vua mới đổi chứ!

Chúng ta chưa làm vua nên không biết làm vua sướng cỡ nào, khổ cỡ nào. Tăng nhàn đầu núi mình cũng chưa được dự phần nên chẳng biết tiêu dao cỡ nào. Nhưng rõ ràng đời sống người tu giản dị hơn đời sống người đời nhiều. Đơn giản thứ nhất là ít nhu cầu. Tóc tai khỏi uốn, cứ nửa tháng cạo một lần là xong. Không tốn tiền mua guốc cao guốc thấp, áo dài áo ngắn. Nói chung phần chăm chút ngoại hình đã khỏe nhiều. Có việc đi đâu không mất thì giờ chuẩn bị rườm rà, đi thanh thản về cũng thanh thản.

Chúng ta càng buông bỏ chừng nào thì cuộc đời càng thanh thản chừng đó. Buông bỏ từ vật chất cho đến tư tưởng rối bời, phức tạp trong tâm. Càng buông bỏ trong lòng chúng ta càng đơn sơ bình dị, tâm tư rộng rãi bao la, càng gần với Phật. Công việc duy nhất của người tu là buông tất cả, càng buông thì càng khỏe, buông không được là thất bại. Ngược lại với buông là nắm giữ, càng nắm giữ là càng khổ, càng bực bội với những gì vuột khỏi tầm tay. Chỉ người không có nhu cầu, không đòi hỏi, sống sao cũng được là người thanh thản nhất. Song, buông trong nhà Phật là buông sự chấp chặt trong tâm, chớ không phải buông bỏ công việc, bổn phận, trách nhiệm. Thực hiện mọi việc nhưng đừng chấp giữ thành quả của mình, tất cả đều do duyên, ta cứ dốc lòng dốc sức, thành bại không làm chúng ta tự mãn hay nản lòng. Được thế là tự tại đi trên buộc ràng.

Các pháp hữu vi không có gì chân thật, bản thân chúng ta đã không thật thì vật sở hữu chung quanh cũng không thật. Chúng ta biết rất rõ điều này nhưng đụng tới mình, ta vẫn sân vẫn si vẫn buồn vẫn khổ… Cho nên Hòa thượng Trúc Lâm nói chúng ta chưa thuộc bài tâm kinh. Cuộc sống được vận hành là do nhân duyên tương tác lẫn nhau. Một người tồn tại được nhờ mối quan hệ tương duyên tương sinh của nhiều người, nhưng thiên hạ vẫn có cảm tưởng mình cô độc. Tại sao? Tại nghiệp của mình chi phối lấy mình, người khác không thể thay thế được. Cho nên chúng sanh cho dù đi chung với nhau trên một con đường vẫn thấy mình độc hành. Độc hành trong mê lộ tử sinh, độc hành trên con đường giác ngộ giải thoát. Bởi chỉ bản thân người ấy đi chứ không có bàn chân nào khác đi thế được.

Nguồn an vui chân thật của chúng ta xuất phát từ đáy lòng chứ không phải từ người khác mang đến. Niềm vui do người khác đem đến thường không tồn tại bền lâu, vì nó mang tính chất vô thường. Vui buồn thật ra là ảo giác phát sinh từ sự tưởng tượng của con người. Khi mơ về một hình ảnh nào đó, ta tưởng nếu gặp được chắc sẽ vui lắm, nhưng đôi khi thực tế diễn ra không như vậy hoặc có thể ngược lại. Chân dung trong tấm hình không thể tả được hết toàn bộ con người ấy. Người trong hình đang cười, không có nghĩa là lúc nào bên ngoài họ cũng cười.

Tôi thích nhất nụ cười của Hòa thượng Ân sư, khi Ngài thuyết pháp nụ cười rất vui. Chính nụ cười ấy là nhân duyên đưa tôi đến với Thầy, đến với nhà thiền. Tôi đã có chí nguyện đi tu từ nhỏ, nhưng trước khi xuất gia, tôi phân vân không biết mình sẽ tu ở chùa nào, tu với ai? Thú thật, tôi là người nữ nhưng rất ngán người nữ. Vì vậy tôi sợ tu với quý Sư bà, sợ bị bắt quỳ hương, sợ giữ oai nghi không nghiêm chỉnh sẽ bị quở bị rầy. Đến khi tôi gặp Hòa thượng, thấy Ngài cười vô cùng hoan hỷ, tôi nói trong bụng, sau này nếu đi tu con sẽ theo Thầy. Một hôm, nhân đi nghe pháp, tôi thưa với Hòa thượng:

- Bạch thầy! Con muốn đi tu lắm. Mai mốt học xong, xin Thầy cho con được theo Thầy xuất gia.

Hòa thượng nói:

- Con còn học bao lâu?

- Dạ còn ba năm nữa.

- Như vậy là không kịp rồi. Cuối năm nay Thầy có đợt xuất gia chót, Thầy khóa cửa không nhận nữa. Nếu con bận học thì sau này có duyên với ai, con xuất gia với người đó.

Hòa thượng hạ ngữ “khóa cửa” làm tôi hoảng vía. Tôi nghĩ mình đâu có gì đặc biệt để xin Ngài sau này hé hé cửa cho vào. Nếu học xong thì Ngài đóng cửa, mà tôi chỉ muốn tu với Ngài thôi. Tôi cứ đinh ninh lúc nào Ngài cũng cười, không có nghiêm khắc đâu mà sợ. Tôi tin tưởng nụ cười của Ngài sẽ bảo hành đời tu của tôi luôn suôn sẻ, chắc chắn không bao giờ gặp khó khăn trở ngại.

Về nhà tôi suy nghĩ lung lắm, nếu học thêm vài năm nữa mình cũng đi tu, đâu có ra làm việc. Lỡ mai mốt tu với người khác, mình bị rầy thì sao? Thôi, bây giờ mình cũng hiểu kinh tạm tạm, đi cho rồi để được làm đệ tử Thầy. Cho nên tôi chạy lên Chân Không, thưa:

- Bạch Thầy con quyết định rồi.

Thầy hỏi:

- Con quyết định gì?

Tôi thưa:

- Con quyết định đi tu đợt này, con không học nữa.

Thầy hỏi:

- Con quyết định kỹ chưa?

Tôi thưa:

- Dạ kỹ.

Thế là Hòa thượng chấp nhận cho tôi xuất gia tại Linh Chiếu. Bấy giờ Ngài ở thiền viện Chân Không, thỉnh thoảng về Thường Chiếu thăm viếng và dạy học cho chư Tăng Ni chúng tôi. Trước lúc xuất gia, khi còn là cô học trò ở Sài Gòn, được tin Hòa thượng về, tôi mừng lắm, nghe Ngài đi giảng ở đâu tôi theo đó. Suốt ngày lẩn quẩn ở các pháp hội.

Khi đi tu tôi cũng nghĩ vậy, thấy Ngài ở đâu là muốn chạy tới đó. Xuất gia nhập chúng rồi mà tôi vẫn chưa hay, chưa biết gì về đời sống thiền môn. Sáng sớm, thấy tên trên bảng công tác: Hạnh Chiếu làm rẫy. Tôi vác cuốc ra đồng, đang cuốc, tôi nhớ Thầy, bèn liệng cuốc đi te te sang Thường Chiếu. Đi một hơi không ai hay, tại vì đất rộng mà người thưa, cỏ cao tới đầu, mình đi không ai thấy. Tới nơi thấy Thầy ngồi đọc sách, tôi hớn hở đi vô:

- Mô Phật, thưa Thầy.

Thầy dòm. Thấy tôi, Thầy nghiêm nét mặt. Lúc đó tôi đi từ ngạc nhiên qua sửng sốt “tại sao Thầy không cười?” Sỡ dĩ tôi đi tu là vì lúc nào Ngài cũng cười tôi mới tu, chớ đâu phải như vầy. Tôi tưởng mình cạo tóc Thầy thấy lạ, nhìn không ra, mới thưa:

- Bạch thầy, con.

Thầy hỏi nghiêm:

- Đi đâu?

Tôi kêu trong bụng “Trời ơi, thì con đi qua thầy chứ đi đâu, mà sao hôm nay giọng nói của Thầy cũng không giống hồi trước?” Mọi lần ở Sài gòn, Phật tử gặp Thầy thưa “Mô Phật”. Thầy cười hỏi: Ừ, đi chùa hả? Mới hôm qua Thầy vẫn còn cười: Xuất gia tốt lắm, ráng nghe. Sao hôm nay lạ vậy? Nhưng thôi, tôi tự trấn an, có gì đâu Thầy chỉ hỏi vậy mà. Tôi thật thà khai báo:

- Dạ con đi chơi.

Thầy càng nghiêm hơn:

- Ai cho?

Không còn giọng nói nhẹ nhàng,  nụ cười hoan hỷ nữa, mà là một sự nghiêm khắc quá bất ngờ, làm cho tôi té từ trên cao té xuống. Bụng bảo dạ phải biết như vầy, con sẽ không đi tu đâu. Từ hớn hở tôi cũng chuyển sang tiu tỉu, lí nhí thưa:

- Dạ con đi đại, đâu có ai cho.

Thầy bảo:

- Đi về.

Tôi không nghĩ Hòa thượng căng thẳng tới như vậy. Không còn một chút xíu gì của ngày trước. Nhưng tôi cũng cố nuôi hy vọng:

- Bạch Thầy, Thầy đuổi con thật?

Thầy vẫn nghiêm nghị:

- Đi về, còn thật với giả!

Lúc đó nước mắt tôi chảy ròng ròng, không ngờ Thầy nghiêm như vầy. Về tới Linh Chiếu, sợ mấy chị biết, tôi gạt nước mắt tiếp tục cuốc bình thường, nhưng trong lòng hết sức phân vân, lo sợ. Chuyện đó tôi đã rất đau nhưng vẫn chưa nhằm gì. Chiều Thầy chống gậy qua, gọi:

- Ban Lãnh Đạo ra đây.

Quý Ni sư không biết chuyện gì, khép nép lắng nghe. Thầy hỏi:

- Sáng nay Hạnh Chiếu đi qua Thầy, có xin phép tụi con không?

Quý Ni sư tá hỏa:

- Bạch Thầy, Hạnh Chiếu đi hồi nào?

- Nó đi vào giờ công tác.

- Bạch Thầy, tụi con không hay.

- Vô kêu nó mặc áo tràng ra đây.

Quý Ni sư bảo:

- Hạnh Chiếu mặc áo tràng ra Thầy dạy.

Tôi mới biết thế nào là thiên đường sụp đổ, không còn đất cho tôi đứng nữa, chân cẳng bời rời muốn rụng tại chỗ. Sáng đã ê ẩm rồi, bây giờ lại còn mặc áo tràng ra đây. Thật ra hồi sáng tôi đi mà không biết mình đã đi trái phép, cứ nghĩ là bình thường. Thầy mình thì mình đi, chớ có đi tới ai mà sợ! Bây giờ quỳ trước Thầy, gương mặt tôi dài thòn, chờ đợi phán xử. Nhưng không, Sư phụ lại đổi chiến thuật nữa, không nghiêm lạnh mà ôn tồn nhỏ nhẹ, ánh mắt vô cùng thương xót, tội nghiệp cho đứa đệ tử mới nhập môn:

- Thầy nói cho con biết, kể từ hôm nay con là một ni cô, một thiền sinh ni giống trong thiền viện phải có quy củ, có người trên kẻ dưới, đi đâu phải xin phép quý Ni sư trong thiền viện phải có quy củ, có người trên kẻ dưới, đi đâu phải xin phép quý Ni sư trong Ban Lãnh Đạo. Có duyên sự cần thiết mới đi, không có duyên sự thì thôi, không được tự ý muốn đi thì đi, muốn làm thì làm, muốn nghỉ thì nghỉ. Con biết con đã là con gái dòng họ Thích chưa?

- Dạ bây giờ con mới biết.

- Con có biết hồi sáng con đã phạm nội quy chưa?

- Dạ bây giờ con mới biết.

- Ờ, biết rồi phải sám hối.

Tôi sám hối mà cũng cứ ấm ức, nghĩ mình quý Thầy kính Thầy, đến bên Thầy như đã từng đến. Đâu ngờ đi tu lại không được như thế. Tôi rất đau khổ. Và chính từ sự đau khổ ấy tôi đã lớn lên, đã nhận ra cái sai lầm nghiêm trọng của mình mà sau này tôi mới phát hiện ra, đó là mình đi tu không phải để phá tan bản ngã mà là gia cố thêm cho bản ngã một cách an toàn. Tôi sợ khổ, tôi sợ bị rầy, tôi sợ sự giáo dưỡng khắt khe là vì tôi muốn bọc nhung bản ngã, không muốn ai làm thương tổn đến mình.

Ngay từ phút ban đầu, Hòa thượng Bổn sư đã xông thẳng vào sào huyệt của bản ngã, lôi đứa đệ tử đáng thương ra khỏi trận đồ vô minh tăm tối ấy, vực dậy trong tôi một câu hỏi lớn “mình đi tu để làm gì?” Nếu không có trí tuệ và từ tâm vô lượng của bậc Ân sư đối với chúng trong bao nhiêu năm qua thì chúng tôi đã trở thành những tu sĩ yếu đuối, khuyết tật, không thể đứng được trên đôi chân của mình. Nếu Thầy không nghiêm như vậy thì không thể đưa chúng đệ tử đi vào nề nếp qui củ. Thầy không nghiêm như vậy thì chư Tăng Ni chúng tôi sẽ không bao giờ biết quay trở lại mình, buông bỏ từng lớp huyễn vọng giả ngã, không bao giờ có sự trưởng thành như ngày hôm nay.

Nhiều người lầm tưởng tu thiền là phá bỏ tất cả uy nghi phép tắc, chẳng cần khép mình trong quy củ thiền môn, mặc tình phóng túng buông lung. Hòa thượng Ân sư tu thiền, tâm tư thanh thản, cởi mở, dung dị, nhưng uy nghi đĩnh đạc, phép tắc rõ ràng, Thanh quy đâu vào đó, lý sự viên dung. Không phải phóng khoáng là buông lung, muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi. Thiền sinh lúc nào cũng phải sống trong tỉnh thức. Muốn đi thì đi, như vậy là sống không tỉnh thức, đã bị vọng tưởng lôi kéo. Sống tỉnh thức là giờ cuốc đất thì cuốc đất, không khởi niệm khác. Đang cuốc đất mà bỏ đi chơi thì không phải sống tỉnh thức mà là buông lung. Cho nên càng sống lâu trong sự giáo dưỡng của Hòa thượng, càng thấy Ngài lý sự viên dung, bi trí dũng tròn đầy.

Trong nhà thiền Tổ Quy Sơn có dạy: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp” nghĩa là ở chỗ chân thật không có mảy bụi, không thọ một trần, nhưng trong cửa muôn hạnh thì không bỏ một pháp lành nào, mỗi mỗi cử chỉ oai nghi đều phải trang nghiêm, thanh tịnh. Làm tất cả việc trong chánh niệm, không được buông lung theo vọng tưởng. Như thế mới tích lũy công đức, viên mãn hạnh nguyện tự lợi lợi tha, thành tựu Phật đạo. Khi chúng ta chưa hiểu Phật pháp, chưa tu, ưng làm gì thì làm, ưng nói gì thì nói, không biết như vậy là sai, mà đôi khi biết sai cũng cứ làm. Bây giờ không như thế nữa. Việc không đúng không làm, nói điều sai không nói, tất cả mọi hành vi đều được trí tuệ kiểm soát. Đó là sống tỉnh thức.

Đi tu vì mục đích giác ngộ giải thoát cho mình thì đúng, còn thích thầy cô hay các cảnh duyên bên ngoài mà tu thì không đúng. Tu như thế rất dễ thất vọng và thoái chuyển. Nếu ta thương Phật, thương Thầy mà đi tu, khi vô chùa Thầy không thương, mình sẽ bỏ tu. Bỏ tu thì mình khổ, chớ Thầy có can hệ chi. Cho nên phải xác định mục đích tu cho đúng, việc tu mới vững vàng.

Tôi hết sức thán phục sự thị hiện của Tôn giả A Nan. Ngài là một vị Thánh đệ tử nổi tiếng của Phật, là thị giả chu đáo và đa văn bậc nhất của Phật. Ngài hiền, đẹp, thông minh, đa cảm, nên gặp nhiều trục trặc trong đời tu. Tuy nhiên, Ngài có công đức rất lớn đối với Ni giới. Nhờ Ngài Ni giới mới được xuất gia. Một cuộc đời thị hiện thường mang tính chất đồng phận với tha nhân. Tôn giả có nhiều đặc điểm người đời ưa thích, nhưng chính vì thế mà chứng Thánh quả muộn nhất so với các vị đại đệ tử của Phật đương thời. Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, Tôn giả Đại Ca Diếp đã bắt tội A Nan đủ điều, dồn A Nan vào con đường cùng, để Ngài buông hết muôn duyên kể cả hình ảnh đức Thế Tôn, chỉ có thế mới tiến lên được Thánh quả. Đây thật là đại thủ thuật, đại phương tiện mà chẳng ai ngoài Tôn giả Đại Ca Diếp mới có thể trợ giúp nổi cho Tôn giả A Nan. Cả hai sự thị hiện thật tuyệt vời. Thuận nghịch tương biến, tương thông, tương dung, tương nhiếp.

Sở dĩ Tôn giả A Nan chưa chứng Thánh quả khi Phật còn tại thế vì Tôn giả quá kính thương Phật, lúc nào cũng chăm chút lo cho Phật, không thể tập trung vào thiền định. Tôn giả Đại Ca Diếp là vị Thượng thủ, thay thế Như Lai thống lĩnh Tăng đoàn. Ngài hiểu và thương A Nan hơn ai hết, biết rõ nguyên nhân nào khiến cho A Nan chưa chứng Thánh, trong đó có yếu tố đa cảm của Ngài. Sau này tôi mới hiểu ra không phải Tôn giả A Nan thật sự là một Tỳ-kheo yếu mềm mà Ngài thị hiện thế thôi. Tôn giả không phải dỡ mà chịu trì trầm như vậy, vì để dạy những người sau, nếu rơi vào những trường hợp như Ngài là trở ngại trên đường tu, chớ không phải tốt đâu. Tôi cảm kích và niệm ân Tôn giả là vì đức hy sinh ấy của Ngài.

Thời ấy, chư Tỳ-kheo chứng Thánh hết chỉ trừ Tôn giả, nên Ngài chịu biết bao nỗi buồn tủi, khổ tâm, bị huynh đệ coi thường. Để chi? Để chúng ta thấy rằng nếu kẹt vô cảnh duyên như vậy rất khó tu. Được thầy thương, bạn bè quý mến, bổn đạo ngưỡng mộ chừng nào càng khó tu chừng nấy. Chúng ta cứ yếu đuối thương cảm tha nhân thế sự, mà không tập trung vào công phu thì không thể để độ mình, nói gì chuyện độ người. Nên sự thị hiện của Ngài rất có ý nghĩa đối với người tu chúng ta, những gì người đời thích thường hay chướng ngại đối với người tu.

Đẹp là điều khó tu thứ nhất, có tài là điều khó tu thứ hai, Thầy thương là điều khó tu thứ ba, bổn đạo quý mến là điều khó tu thứ tư. Nếu rơi vào một trong bốn điều ấy là gặp khó rồi, chớ không phải sướng đâu. Chúng ta tu là vì giải thoát chớ không vì thương ai cả. Nếu do thần tượng một sư nào ta đi tu thì nguy tới. Tại vì khi thấy sư không giống hoàn toàn như mình nghĩ, ta sụp đổ và bỏ đạo thôi. Mục đích ban đầu đã không đúng thì kết quả cũng không đúng. Tu như vậy là mê lầm chớ không phải tỉnh thức.

Sau khi Phật nhập Niết bàn, phải có nghịch cảnh là tôn giả Ca Diếp thúc tiến, ngài A Nan mới viên thành Thánh quả. Hình ảnh Tôn giả Đại Ca Diếp cũng nhắc nhở cho chúng ta một điều rất quan trọng, là nên thân cận minh sư, thiện hữu nghiêm khắc để đẩy mạnh bước tiến đạo của mình hơn. Nên nhớ nghịch duyên là thắng duyên đối với hành giả cầu đạo giải thoát. Cho nên thiết tưởng mỗi chúng ta cũng nên tìm một ngài Đại Ca Diếp trợ duyên cho mình. Có vậy chúng ta mới mau tỉnh thức vươn lên. Phải có những cú sốc làm cho mình giật mình tỉnh mộng hay ra “ta là ai?”

Tôn giả Ca Diếp vừa là sư huynh mà cũng vừa là sư phụ khai thị, kích dương cho Tôn giả A Nan hoàn thành chí nguyện rốt sau. Ngài đã đưa ra ngón đòn quyết liệt, khiến cho A Nan không còn con đường nào thoát thân ngoài việc phải hạ thủ công phu tu. Rất là hay. Có thể nói sau Thế Tôn, Tôn giả Đại Ca Diếp xứng đáng là bậc Thầy của ngài A Nan. Và đúng như thế, chính Tôn giả Ca Diếp đã truyền tâm pháp cho Tôn giả A Nan làm đệ nhị Tổ sư thiền tông. Đạo tình của hai Tôn giả vượt lên thường tình và không gì có thể so sánh được.

Đạo Nho có câu “quân tử giao tình như nước nhạt”, đạo Phật thì bảo bi trí tròn đầy. Tình thương chân thật thì không hệ lụy buộc ràng. Nước nhạt tuy không mùi vị, không ngon  như nước ngọt, nước trái cây nhưng dễ uống và uống không bị bệnh. Còn các thứ nước kia uống vô ban đầu nghe ngon, nhưng sau đó không dễ chịu như nước nhạt. Chúng ta muốn đời tu vươn lên suôn sẻ, nên giữ giao tình như nước nhạt. Thì đó, Tôn giả Ca Diếp đối với A Nan, nhạt mà không nhạt. Có thế mới đưa nhau ra khỏi trầm luân sanh tử, bằng không chỉ càng làm khốn đốn cho nhau mà thôi.

Chúng ta tu hành gặp nghịch duyên phải nhẫn, gặp thuận duyên cũng phải nhẫn, gọi là thuận sanh nhẫn. Tại sao phải nhẫn với cảnh thuận? Vì cảnh thuận sẽ đưa mình vào chỗ yếu đuối, mất đi nhuệ khí. Mê trong cảnh thuận rất khó tỉnh, nó thường làm chúng ta tăng trưởng lòng tham. Mê trong cảnh nghịch làm chúng ta tăng trưởng lòng sân. Hai cảnh này đều phải nhẫn, phải vượt qua. Sống trong cảnh thuận phải thức tỉnh ngay cảnh thuận, xả bỏ để thoát thân khỏi triền phược của cuộc đời. Nếu say sống trong cảnh thuận, mai này mất thân rơi vào đường xấu sẽ không có cơ hội gặp Phật pháp. Muốn ra khỏi sáu đường cần phải tỉnh sáng trước mọi cảnh thuận nghịch của thế gian.

Cho nên sống tỉnh thức là trong tất cả mọi cảnh, biết rõ nó như huyễn không thật, chỉ có bàn tâm không hình không tướng mới chân thật, hằng hữu nơi mình. Nếu chúng ta sống được với tâm này thì giải quyết khổ đau trong hiện đời, đồng thời mãi mãi an vui ở những đời sau. Một khi sống tỉnh thức chúng ta rất vừa lòng với hoàn cảnh hiện tại, sống theo phước duyên của mình, không đòi hỏi, không so đo nên rất an ổn. Ngược lại, nếu chúng ta không tỉnh thức, không biết đủ, chạy theo vật chất, lệ thuộc vào thân tâm như huyễn này thì sẽ tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử không có ngày cùng. Đời này khổ, đời sau lại khổ hơn nữa.

Cho nên học Phật phải ứng dụng được lời Phật dạy, biến lời Phật dạy thành huyết mạch sống của mình. Mỗi cử chỉ, lời nói, việc làm của chúng ta đều mang tính Phật, tính giác ngộ, tính tỉnh thức. Như vậy tuy ta sống giữa cõi đời ô trược mà không bị cõi đời ô trược làm nhiễm. Tu là để an vui chớ không phải để tăng trưởng tham sân si. Đó là mục đích phải đến, chúng ta không thể nào quên.

Mục Lục