Thiền Tông Việt Nam
Thanh Từ Toàn Tập 4 - Kinh Bộ Giảng Giải 4
Phẩm 1 - 6

I- PHẨM PHẬT QUỐC

Chánh văn:

Tôi nghe như vầy: Một hôm Phật ở thành Tỳ-da-ly, vườn cây am-la, cùng với chúng đại Tỳ-kheo tám ngàn người chung hội, Bồ-tát có ba muôn hai ngàn vị là những bậc có tiếng tăm, đại trí bản hạnh thảy đều thành tựu. Do oai thần của chư Phật mà dựng lập nên, là thành để hộ pháp và thọ trì chánh pháp. Các vị Bồ-tát đó hay rống tiếng rống sư tử, danh tiếng đồn đãi khắp mười phương. Các ngài làm bạn không đợi chúng thỉnh, đến để an ủi họ. Và nối tiếp Tam bảo, hay khiến không đoạn dứt. Hàng phục các ma quái và chế ngự chúng ngoại đạo.

Các ngài đều đã thanh tịnh, hằng lìa triền cái. Tâm thường an trụ trong vô ngại giải thoát. Nào là niệm, định, tổng trì, biện tài không dứt. Nào là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và sức phương tiện thảy đều đầy đủ, đều không sở đắc, không khởi pháp nhẫn.

Đã hay tùy thuận chuyển bánh xe bất thối. Khéo hiểu pháp tướng, biết được căn cơ của chúng sanh. Che chở các đại chúng được vô sở úy, dùng công đức trí tuệ để tu tâm, lấy tướng hảo để trang nghiêm sắc thân làm đệ nhất, xả bỏ hết các đồ trang sức ở thế gian.

Danh tiếng của các ngài cao xa, vượt cả núi Tu-di. Lòng tin vững chắc như kim cương. Pháp bảo này soi khắp như mưa nước cam lồ. Ở trong chúng nói pháp vi diệu đệ nhất. Các ngài thâm nhập được lý duyên khởi và đoạn các tà kiến, không dính mắc hai bên có không và không còn những tập khí thừa. Diễn pháp không sợ, như sư tử rống, những lời của các ngài giảng nói ra như tiếng sấm vang, không có lượng và đã quá hạn lượng.

Nhóm họp các pháp bảo, như hải đạo sư, thấu suốt nghĩa thâm diệu của các pháp. Khéo biết chỗ qua lại và tâm sở hành của chúng sanh. Gần bậc Phật vô đẳng đẳng, tự tại tuệ, thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng. Các vị Bồ-tát này đã đóng cửa tất cả các đường ác mà sanh trong ngũ thú để hiện thân kia.

Các ngài là vua thầy thuốc, khéo trị lành bệnh cho chúng sanh, hợp với bệnh cho thuốc, khiến đều được lành bệnh. Các ngài vô lượng công đức thảy đều thành tựu, vô lượng cõi Phật thảy đều trang nghiêm thanh tịnh. Ai thấy hay nghe được các ngài đều có lợi ích. Những việc làm của các ngài đều không luống uổng. Như thế tất cả công đức thảy đều đầy đủ.

Tên của các ngài là Bồ-tát Đẳng Quán, Bồ-tát Bất Đẳng Quán, Bồ-tát Đẳng Bất Đẳng Quán, Bồ-tát Định Tự Tại Vương, Bồ-tát Pháp Tự Tại Vương, Bồ-tát Pháp Tướng, Bồ-tát Quang Tướng, Bồ-tát Quang Nghiêm, Bồ-tát Đại Nghiêm, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Biện Tích, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Ân Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Thường Thảm, Bồ-tát Hỷ Căn, Bồ-tát Hỷ Vương, Bồ-tát Biện Âm, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Chấp Bảo Cự, Bồ-tát Bảo Dũng, Bồ-tát Bảo Kiến, Bồ-tát Đế Võng, Bồ-tát Minh Võng, Bồ-tát Vô Duyên Quán, Bồ-tát Huệ Tích, Bồ-tát Bảo Thắng, Bồ-tát Thiên Vương, Bồ-tát Hoại Quỷ, Bồ-tát Điện Đức, Bồ-tát Tự Tại Vương, Bồ-tát Công Đức Tướng Nghiêm, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Lôi Âm, Bồ-tát Sơn Tướng Kích Âm, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Bạch Hương Tượng, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Diệu Sanh, Bồ-tát Hoa Nghiêm, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Phạm Võng, Bồ-tát Bảo Trượng, Bồ-tát Vô Thắng, Bồ-tát Nghiêm Độ, Bồ-tát Kim Kế, Bồ-tát Châu Kế, Bố-tát Di-lặc, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử... Như thế ba muôn hai ngàn vị.

Lại có muôn vị Phạm thiên, Phạm thiên vương, Thi Khí... từ ở tứ thiên hạ khác đến chỗ Phật để nghe pháp. Lại có một muôn hai ngàn thiên đế cũng từ ở tứ thiên hạ khác đến, ngồi ở trong hội. Cùng những vị chư thiên đại oai lực, long thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già... thảy đến ngồi trong hội. Những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều đến ngồi ở trong hội.

Bấy giờ Phật cùng vô lượng trăm ngàn chúng cung kính vây quanh mà vì họ nói pháp, ví như núi chúa Tu-di hiển hiện trong biển cả, ngài ngồi yên trên tòa báu sư tử che trùm khắp cả đại chúng.

Khi ấy ở thành Tỳ-da-ly có ông trưởng giả tên là Bảo Tích, cùng với năm trăm trưởng giả đều mang lọng bảy báu đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, mỗi vị lấy lọng của mình dâng lên cúng dường Phật. Phật dùng oai lực khiến cho các lọng báu hợp lại thành một cái, che khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, mà những tướng của thế giới rộng lớn này thảy đều hiện ở trong đó. Lại có các núi Tu-di, núi Vân, núi Tuyết, núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Hương, núi Bảo, núi Kim, núi Hắc, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, biển cả sông ngòi, các dòng suối và mặt trời mặt trăng, tinh tú, thiên cung, long cung, cung của các vị tôn thần ở tam thiên đại thiên thế giới này, thảy đều hiện trong cái lọng báu ấy. Lại chư Phật ở mười phương, chư Phật đang nói pháp, cũng đều hiện ở trong lọng báu ấy.

Khi ấy tất cả đại chúng xem thấy thần lực của Phật liền tán thán là điều chưa từng có, đều chắp tay lễ Phật, chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không hề rời. Bấy giờ trưởng giả Bảo Tích liền ở trước Phật làm bài tụng để tán thán:

Mắt Phật đẹp như hoa sen xanh, 

Tâm tịnh vượt qua các thiền định; 

Tịnh nghiệp lâu đời chẳng kể xiết, 

Dùng tịch dẫn chúng nên cúi lạy.

Đã thấy Đại thánh dùng thần biến, 

Khắp hiện mười phương vô lượng cõi; 

Trong đấy chư Phật diễn nói pháp, 

Nơi đây tất cả đều thấy nghe.

Pháp lực của Phật vượt quần sanh, 

Thường dùng pháp tài thí tất cả; 

Hay khéo phân biệt tướng các pháp, 

Nơi nghĩa đệ nhất mà không động; 

Đối với các pháp được tự tại, 

Nên con cúi đầu lễ Pháp vương.

Nói pháp chẳng có cũng chẳng không, 

Do nhân duyên nên các pháp sanh; 

Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả, 

Mà nghiệp thiện ác cũng không mất.

Trước sức hàng ma nơi Phật thọ, 

Được cam lồ diệt, thành đạo giác; 

Đã không tâm ý không thọ hành, 

Mà đều hàng phục các ngoại đạo.

Ba phen chuyển pháp cõi đại thiên, 

Pháp ấy xưa nay thường thanh tịnh; 

Trời người đắc đạo đó là chứng, 

Tam bảo bấy giờ hiện thế gian.

Dùng pháp mẫu này độ chúng sanh, 

Thọ rồi không lui, thường vắng lặng; 

Khỏi già bệnh chết đấng Y vương, 

Lạy ngôi Pháp hải đức không lường.

Khen chê chẳng động như Tu-di, 

Lòng từ chan rải kẻ lành dữ; 

Tâm hạnh bình đẳng như hư không, 

Nghe đấng Nhân bảo, ai chẳng kính.

Nay dâng Thế Tôn lọng nhỏ này, 

Cõi tam thiên con hiện trong đó; 

Thiên cung, long, thần... đều nương ở,

Càn-thát-bà cùng với dạ-xoa; 

Mọi vật trong đời đều thấy rõ, 

Phật thương hiện ra biến hóa này; 

Thấy việc hy hữu chúng khen Phật, 

Con nay lễ đấng Tam giới tôn.

Đại thánh Pháp vương chúng quy ngưỡng, 

Tâm tịnh quán Phật thảy vui vẻ; 

Đều thấy Thế Tôn ở trước mình, 

Đây là thần lực pháp bất cộng.

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 

Chúng sanh tùy loại, thảy được hiểu; 

Đều bảo Thế Tôn đồng tiếng mình, 

Đây là thần lực pháp bất cộng.

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 

Chúng sanh chỗ hiểu tùy mỗi hạng; 

Khắp được thọ hành đều lợi ích, 

Đây là thần lực pháp bất cộng.

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 

Hoặc có sợ hãi, hoặc vui mừng; 

Hoặc sanh nhàm lìa hoặc dứt nghi, 

Đây là thần lực pháp bất cộng.

Kính lễ thập lực đại tinh tấn, 

Kính lễ bậc được vô sở úy;

Kính lễ bậc trụ Pháp bất công,

Kính lễ tất cả Đại đạo sư;

Kính lễ hay đoạn các kiết phược, 

Kính lễ bậc đã đến bờ kia;

Kính lễ hay độ các thế gian, 

Kính lễ hằng lìa đường sanh tử.

Thảy biết chúng sanh tướng qua lại, 

Khéo nơi các pháp được giải thoát;

Không chấp thế gian như hoa sen, 

Thường khéo vào nơi hạnh không tịch;

Đạt các pháp tướng không quái ngại, 

Lễ đấng không nương tợ hư không.

Khi ấy ông trưởng giả Bảo Tích nói kệ này rồi bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Năm trăm ông trưởng giả này đều đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mong được nghe cõi Phật thanh tịnh. Cúi mong Thế Tôn nói hạnh của các vị Bồ-tát ở cõi Phật thanh tịnh.

Phật bảo:

- Lành thay! Bảo Tích, mới hay vì chư Bồ-tát mà hỏi hạnh của Như Lai ở cõi tịnh. Lắng nghe, lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, tôi sẽ vì ông nói.

Khi ấy Bảo Tích và năm trăm ông trưởng giả vâng lời Phật dạy lắng nghe. Phật bảo:

- Bảo Tích, những loài chúng sanh là cõi Phật của Bồ-tát. Vì cớ sao? Bồ-tát tùy chỗ hóa độ chúng sanh mà nhận lấy cõi Phật, tùy chỗ điều phục chúng sanh mà nhận lấy cõi Phật, tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào vào được trí tuệ Phật mà nhận lấy cõi Phật, tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào phát khởi căn tánh Bồ-tát mà nhận lấy cõi Phật. Vì cớ sao? Bồ-tát nhận lấy cõi tịnh độ, đều vì lợi ích cho chúng sanh. Ví như có người muốn nơi chỗ đất trống xây dựng nhà cửa lâu đài, tùy ý không trở ngại. Nếu ở trong hư không thì trọn không thể xây dựng được. Bồ-tát cũng như thế, vì thành tựu chúng sanh nên nguyện nhận lấy cõi Phật, nguyện nhận lấy cõi Phật chẳng phải là nguyện suông.

Bảo Tích nên biết! Trực tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh không dua nịnh được sanh về cõi nước kia.

Thâm tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh nào đầy đủ công đức mới được sanh về cõi nước kia.

Bồ-đề tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh nào phát tâm Đại thừa sẽ được sanh vào cõi nước đó.

Bố thí là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh hay xả bỏ tất cả được sanh về cõi nước kia.

Trì giới là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh nào thực hành mười điều thiện, hạnh nguyện đầy đủ, sẽ được sanh về cõi nước kia.

Nhẫn nhục là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt sẽ sanh về cõi nước kia.

Tinh tấn là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, tất cả những chúng sanh siêng năng tinh tấn đầy đủ công đức thì sanh về cõi nước kia.

Thiền định là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh nhiếp tâm không loạn thì được sanh về cõi nước kia.

Trí tuệ là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, tất cả những chúng sanh chánh định thì được sanh về cõi nước kia.

Tứ vô lượng tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh thành tựu từ bi hỷ xả sẽ được sanh về cõi nước kia.

Tứ nhiếp pháp là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, chúng sanh được nhiếp phục giải thoát sẽ sanh về cõi nước kia.

Phương tiện là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, chúng sanh đối tất cả pháp khéo phương tiện không ngăn ngại thì được sanh về cõi nước kia.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh được niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn lực, giác chi, bát chánh đạo, được sanh về cõi kia.

Hồi hướng tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật được tất cả công đức đầy đủ ở cõi Phật.

Nói trừ tám nạn ấy là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, cõi nước không có ba đường ác và tám nạn.

Tự giữ giới hạnh chẳng có chê bai khuyết điểm của người khác, ấy là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật thì cõi nước không có danh từ phạm giới.

Thập thiện là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật thì những chúng sanh mạng không bị chết yểu, giàu có, Phạm hạnh, nói ra những lời chân thật, thường nói lời nhỏ nhẹ, quyến thuộc không chia lìa, khéo điều hòa các sự thưa kiện, nói ra đều lợi ích cho người, không tật đố, không nóng giận, được chánh kiến sẽ được sanh về cõi nước kia.

Như thế Bảo Tích, Bồ-tát tùy tâm ngay thẳng kia thì hay phát hạnh. Tùy phát hạnh đó liền được thâm tâm. Tùy thâm tâm kia ắt ý được điều phục. Tùy tâm ý điều phục ắt là được việc làm như lời nói. Khi lời nói việc làm đi đôi, mới hay hồi hướng. Tùy hồi hướng đó mà tiến tới phương tiện. Tùy phương tiện ắt thành tựu chúng sanh. Tùy thành tựu chúng sanh ắt được cõi Phật thanh tịnh. Tùy cõi Phật thanh tịnh ắt nói pháp được thanh tịnh. Tùy nói pháp thanh tịnh đó thì trí tuệ thanh tịnh. Tùy trí tuệ thanh tịnh, tâm được thanh tịnh. Tùy tâm thanh tịnh ắt tất cả công đức được thanh tịnh.

Thế nên Bảo Tích, nếu Bồ-tát muốn được cõi tịnh độ phải tịnh tâm kia. Tùy tâm kia tịnh thì cõi Phật tịnh.

Khi ấy ngài Xá-lợi-phất nương nơi oai thần của Phật, khởi nghĩ thế này: “Nếu tâm của Bồ-tát thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh, đức Thế Tôn của ta ngày xưa khi làm Bồ-tát, ý đâu chẳng thanh tịnh, mà cõi Phật này bất tịnh như thế ấy?”

Phật biết ý nghĩ của ngài Xá-lợi-phất, liền bảo ngài rằng:

- Ý ông nghĩ sao, mặt trời mặt trăng há chẳng sáng ư, mà người mù không thể thấy?

Ngài Xá-lợi-phất thưa:

- Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Lỗi là tại người mù, chứ không phải lỗi tại mặt trời mặt trăng.

Phật bảo:

- Xá-lợi-phất! Vì chúng sanh tội chướng không thấy được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Như Lai, chẳng phải lỗi của Như Lai. Này Xá-lợi-phất, cõi nước này của ta thanh tịnh mà ông không thấy.

Khi đó Phạm vương Loa Kế nói với ngài Xá-lợi-phất:

- Chớ khởi nghĩ cõi Phật này là không thanh tịnh. Vì cớ sao? Tôi thấy cõi Phật thanh tịnh của đức Thích-ca-mâu-ni ví như là cung của vua trời Tự Tại vậy.

Ngài Xá-lợi-phất nói:

- Tôi thấy cõi này gò nổng hầm hố, gai góc cát sỏi, đất đá núi non, nhơ nhớp dẫy đầy.

Phạm vương Loa Kế mới nói:

- Tâm nhân giả có cao thấp, không nương nơi trí tuệ Phật, cho nên thấy cõi này ô uế như vậy. Thưa ngài Xá-lợi-phất, Bồ-tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh nương nơi trí tuệ Phật, hay thấy cõi Phật thanh tịnh.

Bấy giờ Phật dùng ngón chân ấn xuống đất, liền khi đó tam thiên đại thiên thế giới, bao nhiêu trăm ngàn trân bảo trang sức, ví như là cõi nước Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm của đức Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả đại chúng khen ngợi việc chưa từng có và đều tự thấy đang ngồi trên tòa sen báu. Phật bảo ngài Xá-lợi-phất:

- Ông hãy xem, cõi nước Phật trang nghiêm thanh tịnh chăng?

Ngài Xá-lợi phất thưa:

- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con chưa từng thấy, chưa từng nghe, nay cõi nước Phật đều hiện rõ trang nghiêm thanh tịnh.

Phật bảo ngài Xá-lợi-phất:

- Cõi nước của ta thường thanh tịnh như thế, nhưng vì muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt, nên thị hiện ra cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh đó thôi. Ví như chư thiên cùng một bát báu đựng thức ăn, tùy phước đức của những người kia mà sắc cơm trong bát có sai khác. Như thế Xá-lợi-phất, nếu người tâm tịnh sẽ thấy cõi này công đức trang nghiêm.

Ngay khi đức Phật hiện cõi nước trang nghiêm thanh tịnh này, năm trăm trưởng giả do ngài Bảo Tích dẫn theo đều được Vô sanh pháp nhẫn, tám muôn bốn ngàn người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật nhiếp thần túc, khi ấy thế giới trở lại như cũ. Ba muôn hai ngàn chư thiên và những người cầu Thanh văn thừa, đều biết pháp hữu vi thảy đều vô thường, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Tám ngàn Tỳ-kheo không thọ các pháp, lậu tận ý giải.

Giảng:

Tôi nghe như vầy: Một hôm Phật ở thành Tỳ-da-ly, vườn cây am-la, cùng với chúng đại Tỳ-kheo tám ngàn người chung hội, Bồ-tát có ba muôn hai ngàn vị là những bậc có tiếng tăm, đại trí bản hạnh thảy đều thành tựu. Do oai thần của chư Phật mà dựng lập nên, là thành để hộ pháp và thọ trì chánh pháp. Các vị Bồ-tát đó hay rống tiếng rống sư tử, danh tiếng đồn đãi khắp mười phương. Các ngài làm bạn không đợi chúng thỉnh, đến để an ủi họ. Và nối tiếp Tam bảo, hay khiến không đoạn dứt. Hàng phục các ma quái và chế ngự chúng ngoại đạo.

Đây là tán thán công đức của ba muôn hai ngàn vị Bồ-tát có mặt trong hội. Thường trong những thời Phật thuyết pháp có một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo câu hội, ở đây có tám ngàn đại Tỳ-kheo mà không nêu tên, chỉ kể và đề cao các vị Bồ-tát. Đó là đặc điểm của bộ kinh. Những vị Bồ-tát này tất cả thiên hạ ai cũng nghe cũng biết, là những bậc trí tuệ rộng lớn và công hạnh đều đã thành tựu. Các ngài đã được chư Phật lâu đời dựng lập nên. Các vị Bồ-tát này là thành hộ pháp tức ủng hộ chánh pháp, và cũng thọ trì chánh pháp, hay giảng dạy, danh tiếng đồn khắp mười phương.

Các ngài làm bạn không đợi thỉnh mời, nói lên tâm của Bồ-tát khi cần làm lợi ích chúng sanh thì lăn xả vào làm. Còn chúng ta có ai mời mới giảng, như vậy chỉ là bạn khi nào có kẻ mời. Các ngài có khả năng nối nắm, hưng thịnh, duy trì Tam bảo, hàng phục ma quân và ngoại đạo.

Các ngài đều đã thanh tịnh, hằng lìa triền cái. Tâm thường an trụ trong vô ngại giải thoát. Nào là niệm, định, tổng trì, biện tài không dứt. Chữ cái là ngủ cái, triền là thập triền. Các ngài hằng xa lìa được ngũ cái và thập triền. Tổng trì là gồm hết, nhớ hết. Biện tài là tài biện luận. Đó là khả năng của các ngài.

Nào là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và sức phương tiện thảy đều đầy đủ, đều không sở đắc, không khởi pháp nhẫn. Tại sao tu mà không khởi pháp nhẫn? Như hiện giờ, chúng ta do tâm ý còn sân si nhiều, ai động đến liền nổi giận. Người muốn tu phải đè cơn giận xuống là nhẫn, nhẫn nhịn như thế gọi là tu. Nếu người nói tới mà ta không nhẫn thì dễ sân si. Nhưng tại sao ở đây các ngài lại không khởi pháp nhẫn? Đối với chúng ta, tưởng nhẫn hay là tu hay, nhưng nhẫn hay là tại sân nhiều. Còn các ngài tham sân si đã dứt, đâu cần khởi nhẫn! Vì vậy nên nói vô sở đắc.

Đã hay tùy thuận chuyển bánh xe bất thối. Khéo hiểu pháp tướng, biết được căn cơ của chúng sanh. Che chở các đại chúng được vô sở úy, dùng công đức trí tuệ để tu tâm, lấy tướng hảo để trang nghiêm sắc thân làm đệ nhất, xả bỏ hết các đồ trang sức ở thế gian.

Lấy công đức trí tuệ mà tu tâm thì dễ hiểu, còn lấy tướng tốt để trang nghiêm sắc thân làm bậc nhất, xả bỏ đồ trang sức thế gian là sao? Thường ở thế gian, muốn trang nghiêm thân phải có đồ trang sức để làm tăng vẻ đẹp. Đó chỉ là hình thức, là phương tiện bên ngoài. Với Bồ-tát thì lấy ba mươi hai tướng tốt của Phật để trang nghiêm thân. Ba mươi hai tướng tốt đều do công phu tu hành mà được. Nghĩa là muốn trang nghiêm thân thì lấy công đức tu hành để thân có đầy đủ tướng tốt, chứ không phải mượn các món trang sức bên ngoài. Trong ba mươi hai tướng tốt của Phật, như tướng lưỡi rộng dài là do tu hạnh không nói dối, trái tai dài được sống thọ là do tu hạnh không giết hại chúng sanh. Mỗi tướng tốt đều do công hạnh tu của các ngài mà được.

Như vậy muốn được những tướng tốt đó phải tu những công hạnh nêu trên. Lấy công hạnh để trang sức thân mình, chứ không vay mượn những thứ bên ngoài. Thế nên, các ngài bỏ hết những đồ trang sức ở thế gian là vậy.

Danh tiếng của các ngài cao xa, vượt cả núi Tu-di. Lòng tin vững chắc như kim cương. Pháp bảo này soi khắp như mưa nước cam lồ. Ở trong chúng nói pháp vi diệu đệ nhất. Các ngài thâm nhập được lý duyên khởi và đoạn các tà kiến, không dính mắc hai bên có không và không còn những tập khí thừa. Diễn pháp không sợ, như sư tử rống, những lời của các ngài giảng nói ra như tiếng sấm vang, không có lượng và đã quá hạn lượng.

Tiếng tăm của các ngài lưu truyền rộng khắp. Pháp âm vang xa không ngằn mé.

Nhóm họp các pháp bảo, như hải đạo sư, thấu suốt nghĩa thâm diệu của các pháp. Khéo biết chỗ qua lại và tâm sở hành của chúng sanh. Gần bậc Phật vô đẳng đẳng, tự tại tuệ, thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng.

Hải đạo sư là vị thầy dẫn đường đi biển. Pháp của Phật nói ra đều tùy bệnh cho thuốc, chúng sanh bệnh nhiều nên pháp Phật cũng nhiều. Các vị Bồ-tát nhóm họp các pháp bảo, thấu suốt nghĩa thâm diệu của các pháp, có đủ phương tiện dìu dắt chúng sanh như bậc thầy dẫn người đi biển. Các vị Bồ-tát này thường gần gũi đức Phật là bậc Vô đẳng đẳng, được tự tại tuệ, được thập lực, được tứ vô sở ủy, thập bát bất cộng.

Các vị Bồ-tát này đã đóng cửa tất cả các đường ác mà sanh trong ngũ thú để hiện thân kia.

Đóng cửa các đường ác thì nghiệp dẫn sanh trong cõi xấu ác không còn nữa, nhưng ở đây nói các ngài đã đóng cửa tất cả đường ác lại hiện sanh trong ngũ thú. Câu này nghe mâu thuẫn, bởi các ngài đã không còn nghiệp để sanh trong tam giới. Nhưng vì lòng đại bi thệ nguyện vào trong ngũ thú để giáo hóa chúng sanh.

Các ngài là vua thầy thuốc, khéo trị lành bệnh cho chúng sanh, hợp với bệnh cho thuốc, khiến đều được lành bệnh. Các ngài vô lượng công đức thảy đều thành tựu, vô lượng cõi Phật thảy đều trang nghiêm thanh tịnh. Ai thấy hay nghe được các ngài đều có lợi ích. Những việc làm của các ngài đều không luống uổng. Như thế tất cả công đức thảy đều đầy đủ.

Đoạn này tán thán công đức của những vị Bồ-tát rất đầy đủ.

Tên của các ngài là Bồ-tát Đẳng Quán, Bồ-tát Bất Đẳng Quán, Bồ-tát Đẳng Bất Đẳng Quán, Bồ-tát Định Tự Tại Vương, Bồ-tát Pháp Tự Tại Vương, Bồ-tát Pháp Tướng, Bồ-tát Quang Tướng, Bồ-tát Quang Nghiêm, Bồ-tát Đại Nghiêm, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Biện Tích, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Ân Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Thường Thảm, Bồ-tát Hỷ Căn, Bồ-tát Hỷ Vương, Bồ-tát Biện Âm, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Chấp Bảo Cự, Bồ-tát Bảo Dũng, Bồ-tát Bảo Kiến, Bồ-tát Đế Võng, Bồ-tát Minh Võng, Bồ-tát Vô Duyên Quán, Bồ-tát Huệ Tích, Bồ-tát Bảo Thắng, Bồ-tát Thiên Vương, Bồ-tát Hoại Quỷ, Bồ-tát Điện Đức, Bồ-tát Tự Tại Vương, Bồ-tát Công Đức Tướng Nghiêm, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Lôi Âm, Bồ-tát Sơn Tướng Kích Âm, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Bạch Hương Tượng, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Diệu Sanh, Bồ-tát Hoa Nghiêm, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Phạm Võng, Bồ-tát Bảo Trượng, Bồ-tát Vô Thắng, Bồ-tát Nghiêm Độ, Bồ-tát Kim Kế, Bồ-tát Châu Kế, Bố-tát Di-lặc, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử... Như thế ba muôn hai ngàn vị.

Lại có muôn vị Phạm thiên, Phạm thiên vương, Thi Khí... từ ở tứ thiên hạ khác đến chỗ Phật để nghe pháp. Lại có một muôn hai ngàn thiên đế cũng từ ở tứ thiên hạ khác đến, ngồi ở trong hội. Cùng những vị chư thiên đại oai lực, long thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già... thảy đến ngồi trong hội. Những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều đến ngồi ở trong hội.

Bấy giờ Phật cùng vô lượng trăm ngàn chúng cung kính vây quanh mà vì họ nói pháp, ví như núi chúa Tu-di hiển hiện trong biển cả, ngài ngồi yên trên tòa báu sư tử che trùm khắp cả đại chúng.

Đoạn này là phần tựa, diễn tả cảnh pháp hội Phật sắp thuyết giảng. Trong pháp hội gồm có những ai, số người tham dự và buổi họp đó diễn ra nơi nào, đều kể ra cho chúng ta biết.

Khi ấy ở thành Tỳ-da-ly có ông trưởng giả tên là Bảo Tích, cùng với năm trăm trưởng giả đều mang lọng bảy báu đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, mỗi vị lấy lọng của mình dâng lên cúng dường Phật. Phật dùng oai lực khiến cho các lọng báu hợp lại thành một cái, che khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, mà những tướng của thế giới rộng lớn này thảy đều hiện ở trong đó. Lại có các núi Tu-di, núi Vân, núi Tuyết, núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Hương, núi Bảo, núi Kim, núi Hắc, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, biển cả sông ngòi, các dòng suối và mặt trời mặt trăng, tinh tú, thiên cung, long cung, cung của các vị tôn thần ở tam thiên đại thiên thế giới này, thảy đều hiện trong cái lọng báu ấy. Lại chư Phật ở mười phương, chư Phật đang nói pháp, cũng đều hiện ở trong lọng báu ấy.

Đoạn này có hai phần: Sự và Lý.

Phần sự, trưởng giả Bảo Tích cùng năm trăm trường giả, mỗi người đem lọng báu của mình hiến dâng lên Phật. Do thần lực của Phật hóa hiện những lọng báu hợp lại thành một. Khi ấy tất cả núi sông đất liền... trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, cho tới hình ảnh cung trời, cùng các vị thần..., mười phương chư Phật nói pháp ở các cõi nước xa, đều hiển hiện trong đó.

Phẩn lý, trong bản kinh này chủ yếu là nói về tâm. Ở đây những lọng báu của các vị trưởng giả là dụ cho tâm riêng. Tâm riêng tư thì không có diệu dụng. Khi đã hợp nhất rồi, tâm mới thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì mười phương cõi Phật, cho tới sum la vạn tượng đều hiện rõ trong đó. Nên nói tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Đây là một bằng chứng cụ thể, không phải nói xa vời.

Thí dụ đức Phật ngồi tu dưới cội bồ-đề, khí tâm hoàn toàn thanh tịnh thì mười phương cõi nước hay các hành tinh xa tít ngài đều nhìn thấy rõ, cho nên ngài mới nói có hằng hà sa số thế giới. Do tâm thanh tịnh nên đức Phật thấy được vô số thế giới bên ngoài, cũng như thấy những vi trùng nhỏ tí ti, mà lúc đó chưa có phương tiện để thấy được như thời nay. Như vậy rõ ràng tâm tịnh thì tất cả đều hiện và thấy được hết. Đó là những điều có thật, không phải do tưởng tượng. Chúng ta tu không mơ ước thần thông, chỉ tiêu diệt phiền não để tâm thanh tịnh. Tâm tịnh thì mọi cảnh bên ngoài, những gì cần biết liền thấy liền biết, không còn nghi ngờ nữa. Chủ yếu của đạo Phật là đạt đến chỗ tâm thanh tịnh thì mới thành cõi Phật thanh tịnh. Chúng ta mơ ước cõi Phật mà không tu, không điều phục tâm thì điều mơ ước đó chỉ là viển vông.

Khi ấy tất cả đại chúng xem thấy thần lực của Phật liền tán thán là điều chưa từng có, đều chắp tay lễ Phật, chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không hề rời. Bấy giờ trưởng giả Bảo Tích liền ở trước Phật làm bài tụng để tán thán:

Đoạn này ý nói, đại chúng thấy việc chưa từng có, nên chắp tay lễ Phật và tán dương ngài. Lúc bấy giờ trường giả Bảo Tích ở trước Thế Tôn làm kệ tán thán.

Mắt Phật đẹp như hoa sen xanh, 

Tâm tịnh vượt qua các thiền định; 

Tịnh nghiệp lâu đời chẳng kể xiết, 

Dùng tịch dẫn chúng nên cúi lạy.

Câu thứ nhất tán thán sắc thân của Phật đẹp đẽ, vì Phật là bậc giác ngộ nên trí tuệ biểu hiện nơi con mắt trong sáng. Câu thứ hai tán thán tâm của Phật. Vì tâm ngài đã hoàn toàn thanh tịnh, nên vượt qua hết các tầng thiền định. Còn tâm chúng ta chưa thanh tịnh, nên phải ngồi thiền để hàng phục và an trụ tâm. Nếu tâm đã an định rồi thì đâu cần ngồi thiền chi nữa! Câu thứ ba tán thán về sự tích lũy vô lượng tịnh nghiệp của ngài. Câu thứ tư tán dương Phật là vị đại đạo sư dẫn dắt chúng sanh đến chỗ tịch tịnh Niết-bàn, cho nên đại chúng đảnh lễ ngài. Như vậy chỉ bốn câu kệ đầu, chúng ta thấy đã tán thán đầy đủ: thân, tâm, tịnh nghiệp và luôn cả sự giáo hóa chúng sanh của đức Phật.

Đã thấy Đại thánh dùng thần biến, 

Khắp hiện mười phương vô lượng cõi; 

Trong đấy chư Phật diễn nói pháp, 

Nơi đây tất cả đều thấy nghe.

Bốn câu này tán thán thần lực của Phật. Khi ngài dùng thần lực để hợp các lọng thành một, thì mười phương vô lượng cõi nước đều hiện rõ trong đó và chư Phật đang diễn nói pháp.

Pháp lực của Phật vượt quần sanh, 

Thường dùng pháp tài thí tất cả; 

Hay khéo phân biệt tướng các pháp, 

Nơi nghĩa đệ nhất mà không động; 

Bốn câu này tán thán Phật khéo nói pháp. Ngài là đấng Pháp vương, khéo dùng pháp lực để dẫn dắt chúng sanh siêu vượt hơn tất cả. Thường dùng cả tài thí pháp thí để làm lợi ích cho mọi người. Lại khéo phân biệt tướng các pháp, đối với nghĩa đệ nhất không động. Còn phân biệt là động, nhưng ở đây đối với nghĩa đệ nhất, ngài phân biệt pháp tướng mà tâm không động. Thí dụ cái nhà vốn không tự có, do gạch, xi-măng, cát, nước, tôn, gỗ... hợp lại thành. Phân tích như vậy để thấy cái nhà không thật có, bởi tự tánh là không, mà tánh Không tức là đệ nhất nghĩa.

Đối với các pháp được tự tại, 

Nên con cúi đầu lễ Pháp vương.

Nói pháp chẳng có cũng chẳng không, 

Do nhân duyên nên các pháp sanh; 

Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả, 

Mà nghiệp thiện ác cũng không mất.

Hai câu đầu, ngài tán thân đức Phật đối với các pháp đã được tự tại, nên cúi đầu đảnh lễ đấng Pháp vương. Bốn câu kế là khen ngợi sự khéo léo nói pháp của Phật. Pháp Phật nói do nhân duyên nên các pháp sanh, không thuộc về có cũng không thuộc về không. Không ngã, không tạo tác, không thọ giả mà nghiệp thiện ác không mất. Thí dụ như bàn tay của tôi, khi xòe năm ngón ra rồi nắm lại thì gọi là nắm tay. Nắm tay có là do nhân duyên hợp. Trước khi năm ngón chưa co lại không có nắm tay, khi co lại tạm gọi là nắm tay, buông ra nắm tay không còn. Nắm tay trước không, sau cũng không. Nếu phân tích từng ngón, ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp, ngón út, tìm nắm tay cũng không có. Như vậy thể của nắm tay là không, duyên hợp tạm có. Nên nói nắm tay là có là không đều không được. Nó có như huyễn như hóa, là hư dối không thật. Thấy được lý nhân duyên thì thấy các pháp không thật, là người trí. Cho nên pháp Phật nói rất khó hiểu, vì trái với cái thấy của phàm phu ngu mê.

Các pháp là vô ngã, là không ta, không người tạo tác, cũng không người thọ nhận mà nghiệp thiện ác không mất. Chúng ta thường nói, đời này làm lành đời sau hưởng phước, như vậy có mình đời này làm và cũng có mình đời sau để hưởng thì dễ hiểu. Ở đây Phật nói vô ngã là không có ta thật, thì làm điều lành rồi đời sau ai hưởng? Mà không có ta thật thì ai làm lành? Không có người làm cũng không có người hưởng, tại sao nghiệp báo không mất? Nói như vậy thật khó hiểu. Như hiện tại đây, cái gì là mình? Cái gì là ta? Cái ta thật khó chỉ. Ngay thân này cái gì là ta, chỉ ra không được. Thế mà lúc nào cũng nghĩ có cái ta làm chủ thân này, mà mình làm chủ được thân này chưa?

Giả sử, có một số trẻ con phá rào chui vô quậy phá vườn chùa, thầy Tri sự thấy liền ra đuổi bọn trẻ. Đó là làm chủ đối với sự việc bên ngoài, có ai xâm phạm mình liền biết và tự giải quyết. Còn trong thân chúng ta, khi ăn là vì muốn ăn hay bao tử trống đòi ăn? Nếu muốn ăn, khi bụng đã no thì dù gặp món rất thích cũng nuốt không vô. Do đó để thấy khi bao tử trống đòi hỏi nên phải ăn. Vậy mà lúc nào cũng nói tôi muốn ăn. Khi ăn chúng ta chỉ biết đem thức ăn vào cơ thể, nó chuyển hóa thế nào, ra sao mình không hay biết. Phải chi ăn vô rồi muốn nó tạo thành chất bổ dưỡng như ý, thì mình mới là chủ. Cũng như những vi trùng ở ngoài xâm nhập vào cơ thể, mình có thể điều khiển các vi trùng bên trong tiêu diệt chúng không? Không thể được. Như vậy chủ ở chỗ nào? Có chủ không? Mà không chủ thì không có ta, không ta tức là vô ngã.

Tuy không chủ nhưng nếu người uống rượu, hút thuốc hoặc á phiện lâu ngày thành ghiền. Ghiền là thói quen khó bỏ, đã tạo thành nghiệp. Như vậy mới thấy không có ngã, không tạo tác, không thọ giả mà nghiệp không mất. Đây là điểm đặc biệt. Lâu nay chúng ta si mê cứ nghĩ mình là chủ, nhưng đó chỉ là tưởng tượng. Cái giả mà tưởng là thật chứ không có thật. Vì ngay nơi con người, mình chỉ biết khái quát, như những nhu cầu đòi hỏi của thân, chẳng hạn cổ họng khô, uống nước vô cho đỡ khát, được mát mẻ, giúp cơ thể hoạt động... còn mọi sinh hoạt bên trong đều không biết.

Như vậy chúng ta thấy ý nghĩa của đạo Phật thật tế nhị, khó suy lường. Đó là bốn câu tán thán pháp Phật rất nhiệm mầu khó hiểu.

Trước sức hàng ma nơi Phật thọ, 

Được cam lồ diệt, thành đạo giác; 

Đã không tâm ý không thọ hành, 

Mà đều hàng phục các ngoại đạo.

Khi đức Phật ngồi tu dưới cội bồ-đề, ngài dùng sức định để hàng phục chúng ma. Trong tứ đế, diệt đế là Niết-bàn, nên cam lồ diệt tức là vị Niết-bàn. Được diệt đế mới giác ngộ thành đạo, lúc bấy giờ tâm ý và thọ hành, tức là nghiệp đều không còn, mà hàng phục được các ngoại đạo. Như vậy chỉ với mấy chữ thôi mà nghĩa lý thật thâm sâu. Thường thường chúng ta muốn hàng phục, muốn lý luận với ai, trước tiên phải suy nghĩ, tìm đủ lý lẽ để chinh phục họ, đó là sử dụng tâm ý trước. Còn đối với đức Phật, ý nghiệp đã hết, phiền não dứt sạch, tâm hoàn toàn thanh tịnh. Khi ma quái và ngoại đạo đến để xướng điều gì, ngài không cần suy nghĩ, thấy rõ mọi vấn đề nên khéo nhiếp phục họ. Đó là điểm đặc biệt của Phật, gọi là thời trí.

Ba phen chuyển pháp cõi đại thiên, 

Pháp ấy xưa nay thường thanh tịnh; 

Trời người đắc đạo đó là chứng, 

Tam bảo bấy giờ hiện thế gian.

Đây là tán thán đức Phật ba lần chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, cho năm anh em Kiều-trần-như. Ngoài ra, những vị hiện có mặt là trời, người... nhờ đó mà chứng được đạo. Pháp âm của Phật vang xa khắp cõi tam thiên, chư thiên ở các cõi trời, cõi Phạm thiên, long thần, thổ địa... đều lặp lại tiếng thuyết pháp đó. Nên nói là chuyển pháp luân cả đại thiên.

Ba phen chuyển pháp luân tức là chuyển pháp tứ đế, pháp đó xưa nay thường thanh tịnh. Chư thiên và người nhờ pháp này mà chứng được đạo quả. Từ đó mới có đầy đủ Tam bảo hiện ở thế gian. Tam bảo gồm có Phật là Phật bảo, pháp tứ đế là Pháp bảo, năm anh em Kiều-trần-như là Tăng bảo.

Dùng pháp mẫu này độ chúng sanh, 

Thọ rồi không lui, thường vắng lặng; 

Khỏi già bệnh chết đấng Y vương, 

Lạy ngôi Pháp hải đức không lường.

Bốn câu này là nói kết quả của pháp Phật rất vi diệu, cứu giúp quần sanh. Người nghe được pháp này tâm không lui sụt, đạt đến chỗ thường vắng lặng thanh tịnh. Đức Phật là đấng Y vương, cho thuốc chúng sanh khỏi già bệnh chết. Thế nên kính lễ Pháp rộng lớn như biển không ngằn mé, có đầy đủ công đức vô lượng vô biên.

Khen chê chẳng động như Tu-di, 

Lòng từ chan rải kẻ lành dữ; 

Tâm hạnh bình đẳng như hư không, 

Nghe đấng Nhân bảo, ai chẳng kính.

Bốn câu kệ này tán dương đức Phật, đối với khen chê tâm ngài đều không động, như núi Tu-di dù có giông bão vẫn không lay động. Ngài dùng tâm từ bi, với người thiện ác đều thương xót bình đẳng không riêng khác. Ở thế gian thấy người hiền gặp khổ thì thương, không thích người dữ nên họ khổ thì cười, còn Phật thì thương tất cả. Vì vậy nói tâm hành của ngài bình đẳng như hư không, nên ai nghe đến đấng quý báu hơn cả cõi trời cõi người, thảy đều kính trọng vâng theo.

Nay dâng Thế Tôn lọng nhỏ này, 

Cõi tam thiên con hiện trong đó; 

Thiên cung, long, thần... đều nương ở,

Càn-thát-bà cùng với dạ-xoa; 

Mọi vật trong đời đều thấy rõ, 

Phật thương hiện ra biến hóa này; 

Đoạn này khen ngợi thần lực của Phật. Khi ngài biến các lọng riêng thành một lọng lớn chung và các thế giới đều hiện trong ấy.

Thấy việc hy hữu chúng khen Phật, 

Con nay lễ đấng Tam giới tôn.

Đại thánh Pháp vương chúng quy ngưỡng, 

Tâm tịnh quán Phật thảy vui vẻ; 

Đều thấy Thế Tôn ở trước mình, 

Đây là thần lực pháp bất cộng.

Đại chúng thấy việc làm của Phật thật hy hữu, nên tất cả đều tán thán và cung kính đảnh lễ ngài là bậc tối tôn trong tam giới. Phật là đấng Đại thánh, là đấng Pháp vương, mọi người đều quy hướng. Tâm ai thanh tịnh nhìn thấy Phật đều hoan hỷ như ngài đang ở trước mình. Đây là do thần lực của pháp bất cộng.

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 

Chúng sanh tùy loại, thảy được hiểu; 

Đều bảo Thế Tôn đồng tiếng mình, 

Đây là thần lực pháp bất cộng.

Phật nói pháp chỉ một thứ tiếng mà mỗi người mỗi loài đều nghe như Phật đang dùng tiếng nói của mình, nên tất cả đều kính ngưỡng, đều nhận hiểu. Đó là do thần lực của pháp bất cộng. Như chúng ta nói tiếng Việt, người Việt nghe thì hiểu, còn người Hoa, người Nhật, người Pháp... họ sẽ không hiểu. Trong pháp hội của Phật, chúng quy tụ nào là người, trời, quỷ thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la... và chư Bồ-tát từ các nơi đến, mà ngài nói pháp ai cũng nghe cũng hiểu. Cho nên chỉ cần tu thành Phật rồi, nói một thứ tiếng mọi người đều nghe như tiếng của họ, chứ không phải nhọc nhằn học nhiều thứ tiếng nói thiên hạ mới nghe mới hiểu.

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 

Chúng sanh chỗ hiểu tùy mỗi hạng; 

Khắp được thọ hành đều lợi ích, 

Đây là thần lực pháp bất cộng.

Phật dùng một thứ tiếng nói pháp, mỗi loài đều hiểu và thực hành được lợi ích. Đó cũng là do thần lực của pháp bất cộng.

Phật dùng một tiếng diễn nói pháp, 

Hoặc có sợ hãi, hoặc vui mừng; 

Hoặc sanh nhàm lìa hoặc dứt nghi, 

Đây là thần lực pháp bất cộng.

Phật chỉ dùng một thứ tiếng, nói một pháp, mà có người nghe thì sợ, người nghe sanh vui mừng, người sanh nhàm chán, người lại dứt nghi. Thí dụ Phật nói làm thập ác phải đọa địa ngục, tu thập thiện được sanh lên cõi trời. Người làm thập ác nghe hoảng sợ, người tu thập thiện tâm sanh vui mừng. Những người từ trước đến giờ việc lành việc ác đều có làm, khi nghe Phật dạy họ chán điều ác, cố làm điều lành, tức là chán lìa. Lại có người thấy người này làm lành, người kia làm ác, họ không biết kết quả ra sao, bây giờ nghe Phật dạy nên không còn nghi. Chỉ một câu nói mà có kẻ sợ, người mừng, kẻ chán, người hết nghi. Qua đó chúng ta thấy ý nghĩa của Phật diễn nói rất rộng rãi cũng do thần lực của pháp bất cộng.

Kính lễ thập lực đại tinh tấn, 

Kính lễ bậc được vô sở úy;

Kính lễ bậc trụ Pháp bất công,

Kính lễ tất cả Đại đạo sư;

Kính lễ hay đoạn các kiết phược, 

Kính lễ bậc đã đến bờ kia;

Kính lễ hay độ các thế gian, 

Kính lễ hằng lìa đường sanh tử.

Đoạn này trưởng giả Bảo Tích kính lễ đức Phật là đấng đầy đủ thập lực, đại tinh tấn, đã chứng được tứ vô sở úy, trụ nơi pháp bất cộng, là vị Đại đạo sư của tất cả. Ngài đã đoạn dứt những trói buộc của ngũ dục trong tam giới, lìa đường sanh tử đến bờ giác ngộ, độ khắp thế gian.

Thảy biết chúng sanh tướng qua lại, 

Khéo nơi các pháp được giải thoát;

Không chấp thế gian như hoa sen, 

Thường khéo vào nơi hạnh không tịch;

Đạt các pháp tướng không quái ngại, 

Lễ đấng không nương tợ hư không.

Sáu câu này ý nói Phật là người khéo thấy biết tướng qua lại trong ngũ đạo lục thú của chúng sanh, khéo đối các pháp được giải thoát. Ngài không dính mắc ở thế gian, như hoa sen ra khỏi bùn không hôi mùi bùn, thường khéo vào hạnh không tịch. Ngài thấu suốt tướng các pháp không còn gì chướng ngại. Câu cuối trưởng giả Bảo Tích kính lễ Phật như hư không vô sở y. Đến đây, ông không còn lễ Phật hình tướng mà lễ Phật vô y, như trong nhà thiền thường nói đạo nhân vô y. Vô y tức là không chỗ nương tựa, không hình tướng, nên lễ Phật vô y là lễ Phật pháp thân. Pháp thân không tướng mạo không chỗ nương tựa, trùm khắp như hư không.

Tóm lại, toàn bài kệ này trưởng giả Bảo Tích tán thán Tam bảo, cuối cùng tán thán Phật pháp thân. Phật pháp thân sẵn có nơi mỗi người chứ không chỉ riêng đức Phật. Như vậy những đoạn trên chỉ là phần diễn tả hội của chư Bồ-tát tập hợp nghe Phật nói pháp và tán thán công đức của Phật thôi.

Khi ấy ông trưởng giả Bảo Tích nói kệ này rồi bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Năm trăm ông trưởng giả này đều đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mong được nghe cõi Phật thanh tịnh. Cúi mong Thế Tôn nói hạnh của các vị Bồ-tát ở cõi Phật thanh tịnh.

Phật bảo:

- Lành thay! Bảo Tích, mới hay vì chư Bồ-tát mà hỏi hạnh của Như Lai ở cõi tịnh. Lắng nghe, lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, tôi sẽ vì ông nói.

Khi ấy Bảo Tích và năm trăm ông trưởng giả vâng lời Phật dạy lắng nghe. Phật bảo:

- Bảo Tích, những loài chúng sanh là cõi Phật của Bồ-tát. Vì cớ sao? Bồ-tát tùy chỗ hóa độ chúng sanh mà nhận lấy cõi Phật, tùy chỗ điều phục chúng sanh mà nhận lấy cõi Phật, tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào vào được trí tuệ Phật mà nhận lấy cõi Phật, tùy chúng sanh ưng theo quốc độ nào phát khởi căn tánh Bồ-tát mà nhận lấy cõi Phật. Vì cớ sao? Bồ-tát nhận lấy cõi tịnh độ, đều vì lợi ích cho chúng sanh. Ví như có người muốn nơi chỗ đất trống xây dựng nhà cửa lâu đài, tùy ý không trở ngại. Nếu ở trong hư không thì trọn không thể xây dựng được. Bồ-tát cũng như thế, vì thành tựu chúng sanh nên nguyện nhận lấy cõi Phật, nguyện nhận lấy cõi Phật chẳng phải là nguyện suông.

Đức Phật giải thích cho ngài Bảo Tích và các vị trưởng giả biết rằng, các loài chúng sanh là cõi tịnh độ của Bồ-tát. Tùy chúng sanh được giáo hóa hoặc được điều phục, tùy chúng sanh ưng cõi nước nào để đạt đến trí tuệ Phật, thì các vị Bồ-tát sẽ nhận lấy cõi Phật tương xứng để giáo hóa, khiến họ phát căn lành, tu hành đến quả vị Bồ-tát hay quả vị Phật.

Bồ-tát nhận lấy cõi Phật thanh tịnh không phải để thụ hưởng cho riêng mình, mà vì sự giáo hóa và lợi ích chúng sanh. Như làm Phật sự, muốn cất chùa to Phật lớn, thâu chúng đông để tạo uy tín riêng mình, vì danh lợi cá nhân mà làm thì không phải hạnh nguyện Bồ-tát. Còn nếu muốn có chỗ trang nghiêm, giúp mọi người an tâm tu hành, đem lợi ích đến cho nhiều người mà trải thân ra làm. Ấy là tâm hạnh Bồ-tát, vì chúng sanh tạo cảnh tịnh độ.

Bởi tâm Bồ-tát lúc nào cũng nhắm thẳng vào chúng sanh, nên các loài chúng sanh là tịnh độ của Bồ-tát. Câu này rất quan trọng. Nếu Bồ-tát làm ngoài ý muốn giáo hóa chúng sanh, đó không phải là Bồ-tát. Như vậy cõi Phật thanh tịnh của chư Bồ-tát là vì lợi ích chúng sanh mà lập, vì lợi ích chúng sanh mà tạo, chứ không phải để thụ hưởng.

Bảo Tích nên biết! Trực tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh không dua nịnh được sanh về cõi nước kia.

Người thế gian sống vì danh lợi, tiền tài... nên họ chiều uốn để được những gì mong muốn. Còn chúng ta tu sống đơn giản, không nhà cửa, không gia đình, không có những nhu cầu quan trọng thì đâu cần có tâm quanh co chiều uốn, vậy mà thỉnh thoảng cũng có chút chút. Do đó, muốn vào cửa đạo hay muốn sanh về cõi nước của Bồ-tát thì phải trực tâm, vì trực tâm là tịnh độ của Bồ-tát.

Lục Tổ cũng nói trực tâm là đạo tràng. Như vậy Phật và Tổ nhắc nhở chúng ta, đã vào đạo rồi tâm phải ngay thẳng, không chiều uốn để được lòng người. Bồ-tát do nhân trực tâm mà được cõi tịnh độ. Những chúng sanh muốn hưởng quả sanh về cõi nước Bồ-tát đó, cũng phải gieo nhân trực tâm, phải bỏ những dối trá mới được. Điều này không thể thiếu đối với người tu.

Thâm tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh nào đầy đủ công đức mới được sanh về cõi nước kia.

Thâm tâm là tâm sâu kín, tâm đã tạo đầy đủ nhân tốt, nhân lành; do đó nói thâm tâm là tịnh độ của Bồ-tát. Người muốn sanh về cõi Tịnh độ của Bồ-tát phải có đầy đủ công đức, nên nói khi Bồ-tát thành Phật rồi, chúng sanh nào đầy đủ những công đức mới được sanh về đó.

Bồ-đề tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh nào phát tâm Đại thừa sẽ được sanh vào cõi nước đó.

Ba thứ tâm này rất thâm thúy. Trực tâm là cửa, thâm tâm là dụng, Bồ-đề tâm là giác. Người tu muốn thành Phật, nhân ban đầu là trực tâm, kế là thâm tâm, sau cùng là giác ngộ. Thế nên người phát tâm Đại thừa là phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mới được sanh về cõi kia. Vì cõi Phật do nhân giác ngộ mà thành, muốn về cõi Phật thanh tịnh mà thiếu giác ngộ thì không thể được.

Bố thí là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh hay xả bỏ tất cả được sanh về cõi nước kia.

Trì giới là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh nào thực hành mười điều thiện, hạnh nguyện đầy đủ, sẽ được sanh về cõi nước kia.

Nhẫn nhục là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt sẽ sanh về cõi nước kia.

Tinh tấn là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, tất cả những chúng sanh siêng năng tinh tấn đầy đủ công đức thì sanh về cõi nước kia.

Thiền định là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh nhiếp tâm không loạn thì được sanh về cõi nước kia.

Trí tuệ là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, tất cả những chúng sanh chánh định thì được sanh về cõi nước kia.

Tứ vô lượng tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh thành tựu từ bi hỷ xả sẽ được sanh về cõi nước kia.

Tứ nhiếp pháp là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, chúng sanh được nhiếp phục giải thoát sẽ sanh về cõi nước kia.

Phương tiện là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, chúng sanh đối tất cả pháp khéo phương tiện không ngăn ngại thì được sanh về cõi nước kia.

Tứ vô lượng tâm là bốn tâm vô lượng: từ, bi, hỷ, xả. Bồ-tát tu tứ vô lượng tâm, thành Phật thì cõi Phật được thanh tịnh. Những chúng sanh tu tứ vô lượng tâm, khi thành tựu viên mãn cũng được sanh về cõi của các ngài. Tứ nhiếp pháp là tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, những chúng sanh được nhiếp phục giải thoát sẽ sanh về cõi ấy.

Phương tiện là tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, chúng sanh đối với các pháp khéo dùng phương tiện không ngại sẽ được sanh về cõi nước kia. Như vậy chúng ta thấy, muốn trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh, Bồ-tát phải tu đủ các công hạnh như lục độ, tứ vô lượng tâm, tứ nhiếp pháp, phương tiện…

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, những chúng sanh được niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn lực, giác chi, bát chánh đạo, được sanh về cõi kia.

Hồi hướng tâm là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật được tất cả công đức đầy đủ ở cõi Phật.

Nói trừ tám nạn ấy là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật, cõi nước không có ba đường ác và tám nạn.

Tự giữ giới hạnh chẳng có chê bai khuyết điểm của người khác, ấy là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật thì cõi nước không có danh từ phạm giới.

Thập thiện là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành Phật thì những chúng sanh mạng không bị chết yểu, giàu có, Phạm hạnh, nói ra những lời chân thật, thường nói lời nhỏ nhẹ, quyến thuộc không chia lìa, khéo điều hòa các sự thưa kiện, nói ra đều lợi ích cho người, không tật đố, không nóng giận, được chánh kiến sẽ được sanh về cõi nước kia.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngủ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo. Ba mươi bảy pháp này giúp người tu hành thành tựu đạo quả, nên gọi là trợ đạo.

Hồi hướng tâm là khởi lòng đại bi cứu độ chúng sanh, chuyển công đức lành hướng về quả vị Vô thượng Bồ-đề, Bồ-tát khi thành Phật, được tất cả công đức đầy đủ ở cõi Phật. Sở dĩ gọi tám nạn vì ở tám chỗ này, cảm thọ quả khổ vui có khác, nhưng đều không được thấy Phật, không được nghe chánh pháp. Ở đây đã trừ hết các nạn, nên cõi Phật không có ba đường ác, cũng không có tám nạn. Trong tám nạn này, chúng ta thấy có nạn sanh ở cõi trời Trường Thọ. Tại sao ở cõi trời Trường Thọ lại nói là nạn? Trong kinh Phật nói những người ở cõi trời đó sống lâu cả tiểu kiếp, luôn thụ hưởng sung sướng, nhưng không được thấy Phật, không được nghe chánh pháp. Sống lâu để hưởng mà không có cơ hội để phát tâm làm phước lành, tỉnh giác tiến tu, thì như bị nhốt trong tháp ngà, hưởng hết phước rơi trở lại trần tục, không được lợi ích. Hiểu điều này chúng ta mới thấy, đạo Phật cốt dạy người tu không nên thụ hưởng nhiều, sống trong hoàn cảnh nào mà dễ phát tâm, dễ thức tỉnh để lo tu hành đó là tốt.

Vậy người tu có sợ tai nạn, sợ khổ, sợ bệnh hoạn không? Nhờ bệnh mới thấy thân này vô thường, nhờ tai nạn mới thấy cuộc đời không gì bảo đảm, nhờ cuộc sống chật vật nghèo khó mới thấy cuộc đời là khổ đau. Thế nên những gì thế gian sợ, Phật cho là cần; thế gian ưa muốn Phật cho là nạn. Như người sanh trong gia đình luôn được sung sướng như ý, khó phát tâm tu. Hiểu vậy mới thấy không phải thiếu thốn khổ đau mới là nạn, mà sống trong si mê không biết tu Phật cũng gọi là nạn.

Giữ giới hạnh không chê bai khuyết điểm của người khác là tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, cõi nước của các ngài không có từ phạm giới. Bổn phận người tu là tự giữ giới hạnh. Người khác không giữ không nên chê bai, biết đâu họ là Bồ-tát thị hiện, làm những điều sai phạm để cảnh tỉnh giáo hóa người. Vì vậy sự tu hành của chúng ta, nếu không có bổn phận trách nhiệm thì không nên chê trách người, cũng không ghét người phạm giới để tỏ ra mình là người trong sạch. Đó là tự làm tổn công đức.

Thập thiện là tịnh độ của Bồ-tát, Bồ-tát khi thành tựu cõi nước thanh tịnh rồi, chúng sanh có đầy đủ những điều kiện là sống lâu, giàu có, phạm hạnh, nói chân thật, thường nói nhỏ nhẹ... không nóng giận, được chánh kiến. Mười điều lợi ích này là do tu nhân thập thiện mà được quả. Giữ giới không sát sanh kết quả là không chết yểu, không trộm cướp thì được giàu có, không tà dâm thì được phạm hạnh. Không nói dối thì được mọi người tin tưởng, không nói ác khẩu thì được người yêu mến, không nói ly gián thì được quyến thuộc không chia lìa, không vu oan cho người thì hòa hợp được sự tranh tụng, không nói thêu dệt thì đem lại lợi ích cho người. Không tham thì không bị tật đố, không sân thì không bị sân nhuế, không tà kiến thì được chánh kiến.

Như thế Bảo Tích, Bồ-tát tùy tâm ngay thẳng kia thì hay phát hạnh. Tùy phát hạnh đó liền được thâm tâm. Tùy thâm tâm kia ắt ý được điều phục. Tùy tâm ý điều phục ắt là được việc làm như lời nói. Khi lời nói việc làm đi đôi, mới hay hồi hướng. Tùy hồi hướng đó mà tiến tới phương tiện. Tùy phương tiện ắt thành tựu chúng sanh. Tùy thành tựu chúng sanh ắt được cõi Phật thanh tịnh. Tùy cõi Phật thanh tịnh ắt nói pháp được thanh tịnh. Tùy nói pháp thanh tịnh đó thì trí tuệ thanh tịnh. Tùy trí tuệ thanh tịnh, tâm được thanh tịnh. Tùy tâm thanh tịnh ắt tất cả công đức được thanh tịnh.

Từ tâm ngay thẳng nên làm việc gì đều lợi ích cho chúng sanh, gọi là phát hạnh. Nhờ hay làm điều lợi ích chúng sanh, nên mới được thâm tâm. Từ thâm tâm mới được ý điều hòa chinh phục. Từ điều hòa chinh phục được ý rồi, lời nói và việc làm mới đi đôi nhau v.v... Tóm lại từ trực tâm cho đến tùy tâm thanh tịnh, thì tất cả công đức đều được thanh tịnh. Câu này chúng ta phải gắng ghi nhớ.

Thế nên Bảo Tích, nếu Bồ-tát muốn được cõi tịnh độ phải tịnh tâm kia. Tùy tâm kia tịnh thì cõi Phật tịnh.

Bồ-tát muốn trang nghiêm tịnh độ, trước tiên tâm phải thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là nhân, cõi Phật thanh tịnh là quả. Nếu tâm cong vạy, nhơ nhớp muốn được về cõi Phật tịnh thì không thể được. Như người nguyện sanh về tịnh độ mà tâm không tịnh, thì cõi Phật làm sao tịnh được? Người biết tu phải lấy tâm làm gốc, không lệ thuộc vào cảnh. Chúng ta thường nghe nói thân là chánh báo, cảnh là y báo. Ở đây Phật nói thẳng, tâm mới là chủ, vì vậy phải sửa tâm trước thì cõi Phật mới được thanh tịnh. Đó là căn bản của sự tu.

Khi ấy ngài Xá-lợi-phất nương nơi oai thần của Phật, khởi nghĩ thế này: “Nếu tâm của Bồ-tát thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh, đức Thế Tôn của ta ngày xưa khi làm Bồ-tát, ý đâu chẳng thanh tịnh, mà cõi Phật này bất tịnh như thế ấy?”

Phật biết ý nghĩ của ngài Xá-lợi-phất, liền bảo ngài rằng:

- Ý ông nghĩ sao, mặt trời mặt trăng há chẳng sáng ư, mà người mù không thể thấy?

Ngài Xá-lợi-phất thưa:

- Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Lỗi là tại người mù, chứ không phải lỗi tại mặt trời mặt trăng.

Phật bảo:

- Xá-lợi-phất! Vì chúng sanh tội chướng không thấy được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Như Lai, chẳng phải lỗi của Như Lai. Này Xá-lợi-phất, cõi nước này của ta thanh tịnh mà ông không thấy.

Tôn giả Xá-lợi-phất khởi nghi này thật hợp lý. Vì nói tâm Bồ-tát thanh tịnh nên cõi nước được thanh tịnh. Vậy đức Phật Thích-ca thuở xưa tu hạnh Bồ-tát chẳng lẽ tâm ngài không thanh tịnh, mà bây giờ cõi Ta-bà của Phật lại ô uế thế này? Phật biết ý nghĩ của ngài Xá-lợi-phất nên nói, mặt trời mặt trăng lúc nào cũng sáng nhưng vì người mù không thể thấy nên họ thấy tối. Tối là lỗi tại người mù, chứ không phải lỗi tại mặt trời mặt trăng. Cũng vậy, do chúng sanh tội nghiệp sâu dầy, nên không thấy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, đó là lỗi của chúng sanh chứ đâu phải lỗi của đức Như Lai.

Khi đó Phạm vương Loa Kế nói với ngài Xá-lợi-phất:

- Chớ khởi nghĩ cõi Phật này là không thanh tịnh. Vì cớ sao? Tôi thấy cõi Phật thanh tịnh của đức Thích-ca-mâu-ni ví như là cung của vua trời Tự Tại vậy.

Ngài Xá-lợi-phất nói:

- Tôi thấy cõi này gò nổng hầm hố, gai góc cát sỏi, đất đá núi non, nhơ nhớp dẫy đầy.

Phạm vương Loa Kế mới nói:

- Tâm nhân giả có cao thấp, không nương nơi trí tuệ Phật, cho nên thấy cõi này ô uế như vậy. Thưa ngài Xá-lợi-phất, Bồ-tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh nương nơi trí tuệ Phật, hay thấy cõi Phật thanh tịnh.

Ngay cõi Ta-bà này mà ngài Xá-lợi-phất thì thấy dẫy đầy những điều bất tịnh, còn Phạm vương Loa Kế lại thấy thanh tịnh như cõi trời Tự Tại. Ông giải thích cho ngài Xá-lợi-phất biết, tại sao ngài lại thấy cõi này gai góc, sỏi sạn... Vì tâm ngài còn phân biệt cao thấp. Nếu tâm bình đẳng thì được thâm tâm thanh tịnh, nương nơi trí tuệ Phật sẽ thấy cõi Phật thanh tịnh. Như vậy ngài Xá-lợi-phất và Phạm vương Loa Kế, một bên thấy uế một bên thấy tịnh, là do thấy theo nghiệp.

Như cảnh thiền viện Thường Chiếu ai đến cũng khen đẹp, nhưng trong chúng có người tâm đang bất an, rối loạn thì cảm thấy bực bội, còn người tâm tự tại thoải mái lại thấy vui tươi. Cùng một cảnh, tùy tâm mỗi người nhìn thấy khác nhau. Tâm đang bực bội dù cảnh thế nào cũng thấy bực bội, tâm an lành tự tại nhìn cảnh nào cũng an lành tự tại.

Thế nên các thiền sư dù ở trong núi rừng vắng vẻ vẫn thấy an vui. Còn chúng ta ở trong chùa trang nghiêm thanh tịnh lại bực bội rầu rĩ, muốn bỏ chùa đi là tại sao? Vì trong tâm đang rối loạn. Bởi tâm không an nên dù trong cảnh nào cũng bất an. Do đó mà chúng ta mới thấy rõ trọng tâm phải đặt ở chỗ nào. Ở nơi tâm.

Bấy giờ Phật dùng ngón chân ấn xuống đất, liền khi đó tam thiên đại thiên thế giới, bao nhiêu trăm ngàn trân bảo trang sức, ví như là cõi nước Vô Lượng Công Đức Bảo Trang Nghiêm của đức Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả đại chúng khen ngợi việc chưa từng có và đều tự thấy đang ngồi trên tòa sen báu. Phật bảo ngài Xá-lợi-phất:

- Ông hãy xem, cõi nước Phật trang nghiêm thanh tịnh chăng?

Ngài Xá-lợi phất thưa:

- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con chưa từng thấy, chưa từng nghe, nay cõi nước Phật đều hiện rõ trang nghiêm thanh tịnh.

Như vậy Phật chỉ cần ấn ngón chân, tôn giả Xá-lợi-phất và đại chúng liền thấy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh hiện ra. Ngài mới thưa với Phật, từ trước đến giờ con chưa từng thấy, chưa từng nghe. Cả đại chúng đều khen ngợi việc chưa từng có và thấy mình ngồi trên tòa sen báu.

Phật bảo ngài Xá-lợi-phất:

- Cõi nước của ta thường thanh tịnh như thế, nhưng vì muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt, nên thị hiện ra cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh đó thôi. Ví như chư thiên cùng một bát báu đựng thức ăn, tùy phước đức của những người kia mà sắc cơm trong bát có sai khác. Như thế Xá-lợi-phất, nếu người tâm tịnh sẽ thấy cõi này công đức trang nghiêm.

Cõi nước của Phật thường thanh tịnh, vì muốn độ chúng sanh những kẻ căn cơ hạ liệt nên ngài thị hiện ra cõi nước đầy cấu uế. Tùy theo nghiệp của mỗi người nên thấy khác nhau. Người tâm tịnh thấy cõi này trang nghiêm thanh tịnh, tâm không tịnh thì thấy cõi này nhớp nhúa. Đây là lẽ thật, không thể chối cãi.

Chúng ta ở nơi nào cảnh nào mà tâm thanh tịnh thì nơi đó thanh tịnh. Như những lúc tâm mình thanh thản nhẹ nhàng, ra ngồi dưới gốc điều lòng cảm thấy vui vui. Còn khi bị ai nói nặng nhẹ, bị làm khó dễ, ra ngồi gốc điều lòng cảm thấy buồn bực. Như vậy chúng ta thấy, tâm tịnh liền thấy cõi tịnh, tâm không tịnh dù cõi tịnh cũng biến thành không tịnh.

Tóm lại, muốn thấy cõi nước Phật thanh tịnh thì trước phải tịnh tâm. Tâm mình tịnh, cõi nước mới được thanh tịnh. Với tâm nhơ nhớp, muốn sanh lên cõi tịnh cũng không bao giờ được. Đó là trọng tâm tu hành.

Ở đây Phật dùng thí dụ, ngài nói chư thiên đều có bát báu giống nhau, tùy phước mỗi người mà thức ăn trong bát hiện ra màu sắc, ngon dỡ khác nhau. Thí dụ này của Phật chúng ta khó hiểu, vì mình chưa bao giờ biết. Thí dụ khác thực tế dễ hiểu hơn, như thí chủ cúng dường một bữa ăn, mâm cao cỗ đầy. Nhưng tùy phước báo mỗi người, người khỏe mạnh ăn thấy ngon, người có bệnh ăn không ngon còn sợ, ngán. Như vậy tùy nghiệp phước của mỗi người mà cảm thọ có khác, chứ không phải do thức ăn.

Ngay khi đức Phật hiện cõi nước trang nghiêm thanh tịnh này, năm trăm trưởng giả do ngài Bảo Tích dẫn theo đều được Vô sanh pháp nhẫn, tám muôn bốn ngàn người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật nhiếp thần túc, khi ấy thế giới trở lại như cũ. Ba muôn hai ngàn chư thiên và những người cầu Thanh văn thừa, đều biết pháp hữu vi thảy đều vô thường, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Tám ngàn Tỳ-kheo không thọ các pháp, lậu tận ý giải.

Ngay khi Phật hiện cõi nước trang nghiêm thanh tịnh này, thì trưởng giả Bảo Tích và năm trăm trưởng giả đều được Vô sanh pháp nhẫn, còn tám muôn bốn ngàn vị khác đều phát tâm Bồ-đề. Như vậy khi cảnh trang nghiêm thanh tịnh đang hiện, những vị Bồ-tát liền được Vô sanh pháp nhẫn hoặc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn hàng Thanh văn và người phải đợi đến lúc Phật thâu thần túc lại rồi, thì thấy đang là cõi tịnh bây giờ thành cõi uế, các ngài mới ngộ được lý vô thường, nên xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Các vị Tỳ-kheo chứng được lậu tận ý giải.

Bồ-tát thấy rõ cõi này vốn thanh tịnh, vì chúng sanh mê nên thấy là bất tịnh. Khi Phật hiện cõi thanh tịnh, các ngài nhận được tịnh độ là từ tâm, nên ngay đó phát tâm vô thượng hoặc chứng đạo. Hàng Thanh văn thấy cõi tịnh biến thành cõi uế, mới thức tỉnh nhận được lý vô thường, chứng được đạo quả Thanh văn. Do đó chúng ta thấy hai trình độ sai biệt nên kết quả cũng sai biệt.

II- PHẨM PHƯƠNG TIỆN

Chánh văn:

Khi ấy ở trong thành lớn Tỳ-da-ly có trưởng giả tên Duy-ma-cật, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật và sâu trồng cội lành, được vô sanh nhẫn. Biện tài vô ngại, du hý thần thông, được các tổng trì. Được vô sở úy, hàng phục ma oán. Vào sâu trong pháp môn, khéo dùng trí độ người, thông suốt phương tiện, đại nguyện thành tựu. Biết rõ chỗ thú hướng của tâm chúng sanh, lại hay phân biệt các căn lợi độn, ở lâu trong Phật đạo, tâm đã thuần thục, quyết định Đại thừa. Và mỗi hành vi tạo tác hay khéo suy lường. Giữ gìn oai nghi của Phật, tâm rộng như biển cả, chư Phật khen ngợi, hàng đệ tử, Đế-thích, Phạm vương, hoặc vua thế gian thảy đều cung kính.

Vì muốn độ người, khéo dùng phương tiện, ở thành Tỳ-da-ly đem của cải vô lượng thu nhiếp những người nghèo khổ. Giữ giới thanh tịnh để nhiếp phục những người phá hủy giới cấm. Dùng nhẫn nhục để điều phục những người nóng giận. Dùng đại tinh tấn để nhiếp phục những người lười biếng. Dùng nhất tâm thiền tịch để nhiếp phục những người loạn ý. Dùng trí tuệ quyết định để nhiếp phục những người vô trí. Tuy làm cư sĩ mà vâng giữ giới luật, thực hành hạnh thanh tịnh của Sa-môn. Tuy là người tại gia mà không đắm nhiễm ba cõi. Thị hiện có vợ con mà thường tu Phạm hạnh. Hiện có quyến thuộc mà thường ưa sự xa lìa. Tuy mặc đồ trang sức đẹp đẽ mà dùng tướng hảo để trang nghiêm thân. Tuy cũng ăn uống mà dùng thiền duyệt làm vị. Hoặc đến chỗ cờ bạc hát xướng, đều vì nhiếp độ họ. Ông thọ học các đạo khác mà không hủy hoại chánh tín. Tuy thông suốt kinh sách thế gian mà thường ưa Phật pháp. Cung kính tất cả là sự cúng dường bậc nhất. Ông giữ gìn chánh pháp, nhiếp độ người lớn và trẻ nhỏ. Tất cả sự sinh sống đều hài hòa, tuy được sự lợi ích thế gian mà không lấy làm vui.

Ông dạo nơi các ngã tư đường làm lợi ích chúng sanh. Vào chỗ chính trị lấy pháp cứu hộ tất cả. Vào chỗ giảng luận hướng dẫn người về Đại thừa. Vào các trường học để dẫn dắt trẻ thơ. Vào những chỗ dâm xá để chỉ lỗi lầm của dục. Vào quán rượu để giúp họ lập chí. Nếu ở trong hàng trưởng giả, là bậc tôn quý trong hàng trưởng giả, vì họ nói pháp thù thắng. Nếu ở trong cư sĩ, là bậc tôn quý trong hàng cư sĩ, vì họ đoạn trừ tâm tham trước. Nếu ở trong dòng Sát-đế-lợi, là bậc tôn quý trong dòng Sát-đế-lợi, dạy họ phương pháp nhẫn nhục. Nếu ở trong dòng Bà-la-môn, là bậc tôn quý trong dòng Bà-la-môn, trừ ngã mạn cho họ. Nếu ở nơi đại thần, là bậc tôn quý trong hàng đại thần, dùng chánh pháp dạy họ. Nếu trong hàng vương tử, là bậc tôn quý trong hàng vương tử, chỉ dạy họ trung hiếu. Nếu ở nội quan, là bậc tôn quý trong hàng nội quan, giáo hóa họ làm người cung nữ chân chánh. Nếu ở chỗ thứ dân, là bậc tôn quý trong hàng thứ dân, dạy họ làm điều phước lành. Nếu ở chỗ Phạm thiên, là bậc tôn quý trong Phạm thiên, dạy bảo họ trí tuệ thù thắng. Nếu ở trong trời Đế-thích, là bậc tôn quý trong Đế-thích, thị hiện cảnh vô thường. Nếu ở trong cõi trời Hộ Thế, là bậc tôn quý trong trời Hộ Thế, bảo hộ các chúng sanh.

Trưởng giả Duy-ma-cật dùng vô lượng phương tiện như thế để làm lợi ích chúng sanh.

Ông dùng phương tiện hiện thân có bệnh. Vì ông có bệnh nên quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn... và hàng vương tử cùng với các quan lại quyến thuộc khác, vô số ngàn người đều đến thăm bệnh ông. Những người đến thăm, ông Duy-ma-cật nhân đó dùng thân bệnh vì họ rộng nói pháp:

- Này các nhân giả! Thân này là vô thường, không mạnh mẽ, không sức lực, không bền bỉ, là pháp chóng hư hoại, không thể tin được vậy. Nó là khổ, là não, là chỗ nhóm họp của các bệnh.

Này các nhân giả, thân này như thế, người trí sáng suốt không nên nương cậy vào nó. Thân này như chùm bọt, không thể nắm bắt. Thân này như bong bóng nước, không được lâu bền. Thân này như sóng nắng, từ khát ái sanh. Thân này như cây chuối, ở trong không có lõi chắc. Thân này như huyễn hóa, từ điên đảo dấy khởi. Thân này như mộng, do thấy hư dối mà thành. Thân này như bóng, từ nơi nghiệp duyên hiện. Thân này như vang, thuộc về các nhân duyên. Thân này như mây nổi, trong chốc lát biến diệt. Thân này như làn điện chớp, niệm niệm không dừng. Thân này không chủ, như là đất. Thân này không có ngã, như là lửa. Thân này không thọ mạng, như là gió. Thân này không có nhân, như là nước. Thân này không thật, do tứ đại làm nhà. Thân này là không, lìa ngã và ngã sở. Thân này là vô tri, như cỏ cây ngói gạch. Thân này không tạo tác, do sức gió mà chuyển. Thân này nhơ nhớp, ô uế dẫy đầy. Thân này là hư dối, tuy nhờ do tắm gội ăn mặc, tất phải trở về tiêu tan. Thân này là tai họa, một trăm lẻ một bệnh làm não loạn. Thân này như gò giếng, bị cái già bức bách. Thân này không chắc chắn, rốt cuộc phải chết. Thân này như rắn độc, như kẻ giặc thù, như xóm rỗng, vì do ấm giới các nhập chung hợp mà thành.

Này các nhân giả, thân này là tai họa đáng chán, phải ưa thích thân Phật. Vì cớ sao? Thân Phật tức là pháp thân. Từ vô lượng công đức trí tuệ sanh; từ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến sanh; từ từ bi hỷ xả sanh; từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, nhu hòa, siêng năng hành tinh tấn, thiền định, giải thoát tam-muội, đa văn, trí tuệ, các ba-la-mật sanh; từ phương tiện sanh; từ lục thông sanh; từ tam minh sanh; từ ba mươi bảy phẩm trợ đạo sanh; từ chỉ quán sanh; từ thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp sanh; từ đoạn tất cả pháp bất thiện, nhóm họp tất cả các pháp thiện sanh; từ chân thật sanh; từ không phóng dật sanh. Từ vô lượng pháp thanh tịnh như thế mà sanh thân Như Lai.

Chư nhân giả, muốn được thân Phật, đoạn tất cả bệnh của chúng sanh, phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Như thế ông Duy-ma-cật vì các người đến thăm bệnh, tùy mỗi người mà nói pháp, làm cho vô số ngàn người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Giảng:

Phương tiện là phương pháp khéo léo dùng để hướng dẫn người tu đạt đến chỗ cứu cánh.

Khi ấy ở trong thành lớn Tỳ-da-ly có trưởng giả tên Duy-ma-cật, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật và sâu trồng cội lành, được vô sanh nhẫn. Biện tài vô ngại, du hý thần thông, được các tổng trì. Được vô sở úy, hàng phục ma oán. Vào sâu trong pháp môn, khéo dùng trí độ người, thông suốt phương tiện, đại nguyện thành tựu. Biết rõ chỗ thú hướng của tâm chúng sanh, lại hay phân biệt các căn lợi độn, ở lâu trong Phật đạo, tâm đã thuần thục, quyết định Đại thừa. Và mỗi hành vi tạo tác hay khéo suy lường. Giữ gìn oai nghi của Phật, tâm rộng như biển cả, chư Phật khen ngợi, hàng đệ tử, Đế-thích, Phạm vương, hoặc vua thế gian thảy đều cung kính.

Đoạn này tán thân công hạnh của cư sĩ Duy-ma-cật, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo trồng căn lành nhiều đời, chứng vô sanh pháp nhẫn, được biện tài vô ngại, du hý thần thông, được các tổng trì, được vô sở úy, hàng phục các ma oán không chướng ngại, thâm nhập pháp môn, khéo dùng trí độ chúng sanh, thông suốt mọi phương tiện, đại nguyện thành tựu, tâm rộng như biển cả. Cư sĩ Duy-ma-cật được chư Phật khen ngợi, không những hàng phàm phu mà cả đệ tử Phật, trời Đế-thích, Phạm vương, vua thế gian thảy đều cung kính. Vì có những khả năng và công hạnh như thế nên ông mới khéo dùng phương tiện để hóa độ người.

Học kinh là để học theo gương hạnh của các vị Bồ-tát, chứ không nên đồng hóa mình với các ngài, vì sánh với công đức của chư vị, chúng ta không bì kịp.

Vì muốn độ người, khéo dùng phương tiện, ở thành Tỳ-da-ly đem của cải vô lượng thu nhiếp những người nghèo khổ. Giữ giới thanh tịnh để nhiếp phục những người phá hủy giới cấm. Dùng nhẫn nhục để điều phục những người nóng giận. Dùng đại tinh tấn để nhiếp phục những người lười biếng. Dùng nhất tâm thiền tịch để nhiếp phục những người loạn ý. Dùng trí tuệ quyết định để nhiếp phục những người vô trí. Tuy làm cư sĩ mà vâng giữ giới luật, thực hành hạnh thanh tịnh của Sa-môn. Tuy là người tại gia mà không đắm nhiễm ba cõi. Thị hiện có vợ con mà thường tu Phạm hạnh. Hiện có quyến thuộc mà thường ưa sự xa lìa. Tuy mặc đồ trang sức đẹp đẽ mà dùng tướng hảo để trang nghiêm thân. 

Vì muốn làm lợi ích cho người, ngài Duy-ma-cật phương tiện làm cư sĩ tại gia. Tuy hình thức cư sĩ mà ông khéo độ người, thu nhiếp người nghèo khó bằng của cải vô lượng, nhiếp phục kẻ phá giới bằng sự giữ giới thanh tịnh, lấy nhẫn nhục để độ người nóng giận, dùng sức tinh tấn giáo hóa người biếng lười. Ở đây nói ông là cư sĩ tại gia mà thực hành hạnh Sa-môn, thị hiện có vợ con mà thường tu Phạm hạnh, không nhiễm trước ba cõi... là ý gì? Hiện chúng ta đang ở cõi Dục là cõi thấp nhất trong tam giới mà còn say mê chìm đắm, ông tuy là cư sĩ tại gia mà tâm được tự tại giải thoát nên đối với tam giới không nhiễm.

Tại sao nói dùng tướng hảo để trang nghiêm thân? Đức Phật sở dĩ có ba mươi hai tướng tốt là do công đức tu hành mà được. Cũng vậy, cư sĩ Duy-ma-cật tuy có những đồ trang sức, áo quần đẹp đẽ nhưng với ông không quan trọng, chỉ dùng công hạnh tu để trang nghiêm thân. Như đức Phật có tướng lưỡi rộng dài vì nhiều đời ngài tu hạnh không nói dối. Tướng nhục kế là do nhiều đời hiếu kính cha mẹ, kính thuận sư trưởng... Như vậy mỗi tướng tốt là do công đức tu hành của ngài.

Tuy cũng ăn uống mà dùng thiền duyệt làm vị. Hoặc đến chỗ cờ bạc hát xướng, đều vì nhiếp độ họ. Ông thọ học các đạo khác mà không hủy hoại chánh tín. Tuy thông suốt kinh sách thế gian mà thường ưa Phật pháp. Cung kính tất cả là sự cúng dường bậc nhất. Ông giữ gìn chánh pháp, nhiếp độ người lớn và trẻ nhỏ. Tất cả sự sinh sống đều hài hòa, tuy được sự lợi ích thế gian mà không lấy làm vui.

Tuy ăn uống mâm cao cỗ đầy, cư sĩ Duy-ma-cật không thấy quan trọng, mà chỉ vui trong thiền vị, nên nói thiền duyệt vi thực. Hằng ngày chúng ta thưởng thức đủ mùi vị, vậy khi ngồi thiền có được hưởng vị thiền chăng? Người tu thiền khi tâm an định thân nhẹ nhàng, ngồi thiền là thảnh thơi an lành nhất, đó là nếm được vị thiền, nên nói thiền duyệt vi thực. Duyệt là vui, lấy vui trong tọa thiền làm thức ăn. Vì vậy ngày nào thiếu một giờ ngồi thiền là cảm thấy đói. Còn người không biết tu, giờ ngồi thiền được ngủ thì vui thích, là no chứ đâu có đói? Do chưa tự tại an lành trong việc tu.

Cư sĩ Duy-ma-cật đã được thần thông du hý tự tại, nên vào sòng bạc, đến hý trường... để hóa độ người chứ không phải để vui chơi. Chúng ta tâm còn nhơ nhiễm, vào chỗ đó thì nhiễm nhơ thêm. Các vị Bồ-tát có quyền làm như vậy vì các ngài đã đầy đủ khả năng, thành tựu các công đức nên đến để nhiếp độ người không bị trở ngại.

Theo học ngoại đạo mà không mất chánh tín. Thông hiểu sách vở thế gian mà vui thích Phật pháp. Đối với cư sĩ Duy-ma-cật, cúng dường Tam bảo là sự tôn trọng bậc nhất. Giữ gìn chánh pháp để hóa độ mọi người. Cuộc sống luôn được hài hòa thoải mái, không gì trở ngại. Những điều lợi lộc của thế tục, như làm ăn buôn bán... chẳng lấy đó làm vui.

Ông dạo nơi các ngã tư đường làm lợi ích chúng sanh. Vào chỗ chính trị lấy pháp cứu hộ tất cả. Vào chỗ giảng luận hướng dẫn người về Đại thừa. Vào các trường học để dẫn dắt trẻ thơ. Vào những chỗ dâm xá để chỉ lỗi lầm của dục. Vào quán rượu để giúp họ lập chí. Nếu ở trong hàng trưởng giả, là bậc tôn quý trong hàng trưởng giả, vì họ nói pháp thù thắng. Nếu ở trong cư sĩ, là bậc tôn quý trong hàng cư sĩ, vì họ đoạn trừ tâm tham trước. Nếu ở trong dòng Sát-đế-lợi, là bậc tôn quý trong dòng Sát-đế-lợi, dạy họ phương pháp nhẫn nhục. Nếu ở trong dòng Bà-la-môn, là bậc tôn quý trong dòng Bà-la-môn, trừ ngã mạn cho họ. Nếu ở nơi đại thần, là bậc tôn quý trong hàng đại thần, dùng chánh pháp dạy họ. Nếu trong hàng vương tử, là bậc tôn quý trong hàng vương tử, chỉ dạy họ trung hiếu. Nếu ở nội quan, là bậc tôn quý trong hàng nội quan, giáo hóa họ làm người cung nữ chân chánh. Nếu ở chỗ thứ dân, là bậc tôn quý trong hàng thứ dân, dạy họ làm điều phước lành. Nếu ở chỗ Phạm thiên, là bậc tôn quý trong Phạm thiên, dạy bảo họ trí tuệ thù thắng. Nếu ở trong trời Đế-thích, là bậc tôn quý trong Đế-thích, thị hiện cảnh vô thường. Nếu ở trong cõi trời Hộ Thế, là bậc tôn quý trong trời Hộ Thế, bảo hộ các chúng sanh.

Trưởng giả Duy-ma-cật dùng vô lượng phương tiện như thế để làm lợi ích chúng sanh.

Cư sĩ Duy-ma-cật thường dạo chơi khắp phố phường để làm lợi ích chúng sanh. Tham gia việc chính trị, pháp luật để giúp đỡ quốc dân. Vào dâm xá, quán rượu để chỉ cho người biết lỗi lầm của dục, độc hại của rượu rồi lập chí bỏ rượu, xa lìa ái dục...

Dù ở giai cấp nào Cư sĩ cũng dự vào, được quý kính và có đủ phương tiện để hóa độ. Như Sát-đế-lợi là dòng võ tướng, đi chinh phục cầm binh ra trận, nên dạy họ cách nhẫn nhục. Bà-la-môn là dòng dõi cao quý nhất, tâm thường ngã mạn nên dạy họ phải diệt trừ.

Vì sao ở trong hàng Đế thích thị hiện cảnh vô thường? Trời Đế thích là vua cõi trời, thừa hưởng ngũ dục lạc khó biết tu, nên cư sĩ Duy-ma-cật hiện cảnh vô thường già bệnh chết để thức tỉnh chư thiên.

Tóm lại, tất cả việc làm của cư sĩ Duy-ma-cật đều dùng phương tiện độ sanh, chứ không phải vì nghiệp lôi. Trường hợp nào cũng nhắm thẳng lợi ích cho người mà đến, không phải vì thụ hưởng, vì an vui riêng mình. Như vậy với người giàu sang quyền quý hoặc người lầm lỡ... thì đến để khuyên răn, cảnh tỉnh. Với người nghèo khó, thứ dân, trẻ thơ... thì giúp đỡ họ.

Ông dùng phương tiện hiện thân có bệnh. Vì ông có bệnh nên quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn... và hàng vương tử cùng với các quan lại quyến thuộc khác, vô số ngàn người đều đến thăm bệnh ông. Những người đến thăm, ông Duy-ma-cật nhân đó dùng thân bệnh vì họ rộng nói pháp.

Nghe cư sĩ Duy-ma-cật bệnh nên quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn... vô số ngàn người đều đến thăm. Cư sĩ Duy-ma-cật thị hiện thân bệnh để làm phương tiện vì người thuyết pháp, chứ không phải vì nghiệp chướng mà bệnh. Còn chúng ta bệnh, có nói pháp cho người khác nghe hay nằm rên rỉ than thở? Tuy chúng ta không được như cư sĩ Duy-ma-cật, nhưng nếu có bệnh, ai tới thăm, nên nói thân này là vô thường, hôm qua còn đi nhanh nhẹn, nay lại nằm, dậy không nổi. Đó cũng là nhân duyên bệnh mà cảnh tỉnh người.

Này các nhân giả! Thân này là vô thường, không mạnh mẽ, không sức lực, không bền bỉ, là pháp chóng hư hoại, không thể tin được vậy. Nó là khổ, là não, là chỗ nhóm họp của các bệnh.

Này các nhân giả, thân này như thế, người trí sáng suốt không nên nương cậy vào nó. 

Thân này là vô thường, không sức mạnh, không bền chắc, là vật mau hư mục, là ổ chứa các thứ khổ não. Người trí sáng suốt không bao giờ tin cậy vào nó, còn chúng ta đối với thân này thì sao? Cứ tin mình khỏe mạnh sống lâu, không biết hôm nay đang đi mai chết cũng có, hiện tại ngồi đây ngày mai bệnh cũng có, không gì nhất định. Không biết ngày nào chết làm sao tin được thân này bền chắc. Vậy mà bất chợt bệnh đến, tâm sanh bực bội, ai bảo mình sắp chết thì lo sợ, hoảng hốt. Nếu hiểu rõ thân này không gì bảo đảm thì có gì đáng tin.

Thân này như chùm bọt, không thể nắm bắt. Thân này như bong bóng nước, không được lâu bền. Thân này như sóng nắng, từ khát ái sanh. Thân này như cây chuối, ở trong không có lõi chắc. Thân này như huyễn hóa, từ điên đảo dấy khởi. Thân này như mộng, do thấy hư dối mà thành. Thân này như bóng, từ nơi nghiệp duyên hiện. Thân này như vang, thuộc về các nhân duyên. Thân này như mây nổi, trong chốc lát biến diệt. Thân này như làn điện chớp, niệm niệm không dừng. Thân này không chủ, như là đất. Thân này không có ngã, như là lửa. Thân này không thọ mạng, như là gió. Thân này không có nhân, như là nước. Thân này không thật, do tứ đại làm nhà. Thân này là không, lìa ngã và ngã sở. Thân này là vô tri, như cỏ cây ngói gạch. Thân này không tạo tác, do sức gió mà chuyển. Thân này nhơ nhớp, ô uế dẫy đầy. Thân này là hư dối, tuy nhờ do tắm gội ăn mặc, tất phải trở về tiêu tan. Thân này là tai họa, một trăm lẻ một bệnh làm não loạn. Thân này như gò giếng, bị cái già bức bách. Thân này không chắc chắn, rốt cuộc phải chết. Thân này như rắn độc, như kẻ giặc thù, như xóm rỗng, vì do ấm giới các nhập chung hợp mà thành.

Đoạn này cư sĩ Duy-ma-cật chỉ cho chúng ta thấy sự giả tạm, mong manh... của thân. Thân này như bọt biển có thể nắm được không? Đụng đến nó liền tan. Khi hạt mưa trên mái nhà rơi xuống, bong bóng nổi lên chốc lát liền vỡ. Thân này cũng không bền chắc như vậy.

Thân này như sóng nắng từ khát ái sanh, không có thật. Khát ái là yêu thích. Con nai khi khát nước, nhìn ánh nắng chập chờn đằng xa tưởng là dòng nước, chạy nhanh tới để tìm uống. Càng chạy càng thất vọng vì không thấy nước. Chúng ta cũng vậy, yêu thích thân này, cứ bám giữ mãi mà có được đâu, rồi cũng tan hoại.

Thân này không chắc như cây chuối, cứ lột ra từng bẹ từng bẹ, tìm lõi cây cứng không có.

Hằng ngày thân này cuốc đất, gặt lúa... làm đủ thứ mà nói không tạo tác thật khó chấp nhận. Nhưng sự thật tất cả hoạt động của thân đều do gió mà ra. Khi ăn nếu nhai hoài mà không có gió đưa thức ăn vào thì không thể nuốt được. Uống cũng do gió hút nước theo vào. Như vậy ăn uống, các hoạt động của cơ thể như tim đập, máu chảy... đều nhờ gió đem vô nuôi thân này. Khi tống ra cũng phải nhờ gió. Vậy mà chúng ta không biết, tưởng mọi hoạt động trong cơ thể do mình làm chủ, nhưng không ngờ chính là nhờ sức gió.

Thân này không cố định, không chắc chắn, rốt cuộc phải đi đến chỗ chết.

Đoạn trên phân tích về thân quá kỹ, nào là không thể tin, không đáng nương cậy, thân này là tạm bợ, là tai họa, là nhơ nhớp. Và ở đây lại nói thân này như rắn độc, như kẻ oán thù, giặc cướp cứ chực chờ để giành giật lẫn nhau. Thân này như xóm rỗng, do ấm giới nhập chung lại mà thành. Vậy mà chúng ta lại thấy nó thật! Nếu biết rõ thân không bền, không đáng trông cậy, là tạm bợ, nhớp nhúa, khổ đau, có gì đáng quý mà chấp. Không chấp là nhân để đi tới vô ngã, giải thoát.

Cư sĩ Duy-ma-cật chỉ ra tai họa của thân rất đáng chán chê, nhưng chán thân này rồi phải làm gì?

Này các nhân giả, thân này là tai họa đáng chán, phải ưa thích thân Phật. Vì cớ sao? Thân Phật tức là pháp thân. Từ vô lượng công đức trí tuệ sanh; từ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến sanh; từ từ bi hỷ xả sanh; từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, nhu hòa, siêng năng hành tinh tấn, thiền định, giải thoát tam-muội, đa văn, trí tuệ, các ba-la-mật sanh; từ phương tiện sanh; từ lục thông sanh; từ tam minh sanh; từ ba mươi bảy phẩm trợ đạo sanh; từ chỉ quán sanh; từ thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp sanh; từ đoạn tất cả pháp bất thiện, nhóm họp tất cả các pháp thiện sanh; từ chân thật sanh; từ không phóng dật sanh. Từ vô lượng pháp thanh tịnh như thế mà sanh thân Như Lai.

Chúng ta phải nhàm chán thân tạm bợ hôi hám nhớp nhúa để ưa thích thân Phật. Thân Phật là chỉ cho pháp thân bất sanh bất diệt, chứ không phải là thân ba mươi hai tướng tốt. Pháp thân là do sự tích tụ vô lượng công đức trí tuệ nhiều đời nhiều kiếp mà thành tựu, nên mới trang nghiêm đẹp đẽ, còn thân tứ đại ngũ uẩn này là bất tịnh, là tạm bợ... Vì vậy người trí phải thấy xa và nhàm chán để cầu pháp thân trí tuệ kia.

Chư nhân giả, muốn được thân Phật, đoạn tất cả bệnh của chúng sanh, phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Như thế ông Duy-ma-cật vì các người đến thăm bệnh, tùy mỗi người mà nói pháp, làm cho vô số ngàn người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.Cư sĩ Duy-ma-cật tùy theo trình độ, nghiệp duyên của người đến thăm bệnh, mà nói pháp thích hợp với sở nguyện, để họ được lợi ích và phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Học qua đoạn này mới thấy tinh thần của Bồ-tát, mỗi hành động, cử chỉ phát ra là vì chúng sanh. Trường hợp cư sĩ Duy-ma-cật bệnh cũng vì chúng sanh mà bệnh chứ không phải vì nghiệp duyên.

III- PHẨM ĐỆ TỬ

XÁ LỢI-PHẤT

Chánh văn:

Khi ấy trưởng giả Duy-ma-cật tự nghĩ, nằm bệnh trên giường, Thế Tôn là đấng đại từ, đâu chẳng thương xót.

Phật biết ý ông Duy-ma-cật, liền bảo ngài Xá-lợi-phất:

- Ông hãy đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa, từng ở trong rừng ngồi yên dưới cội cây, khi ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con: “Thưa ngài Xá-lợi-phất, không hẳn ngồi thế ấy là ngồi yên. Phàm ngồi yên thì ở tam giới mà không hiện thân ý, ấy là ngồi yên. Không khởi Diệt tận định mà hiện các oai nghi, ấy là ngồi yên. Không bỏ đạo pháp mà hiện việc phàm phu, ấy là ngồi yên. Tâm không trụ trong cũng không ở ngoài, ấy là ngồi yên. Đối các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ấy là ngồi yên. Không đoạn phiền não mà vào Niết-bàn, ấy là ngồi yên. Nếu có thể ngồi như thế thì Phật sẽ ấn chứng cho.”

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con nghe những lời nói này, lặng thinh mà thôi, không thể nào đáp được. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Khi nằm bệnh, cư sĩ Duy-ma-cật thầm nghĩ, đức Thế Tôn đại bi thế nào cũng đến thăm. Ông vừa khởi niệm, Phật liền cảm ứng bảo tôn giả Xá-lợi-phất tới thăm bệnh. Qua đó chúng ta thấy, do tâm thanh tịnh nên dễ được cảm ứng. Nếu tâm thanh tịnh vừa nhớ Phật, Phật liền ứng; vừa nhớ pháp, pháp liền hiện; nhớ tăng, tăng liền có.

Được Phật cử đi, tôn giả Xá-lợi-phất xin từ chối vì đã từng bị cư sĩ Duy-ma-cật chất vấn.

Phàm ngồi yên thì ở tam giới mà không hiện thân ý, ấy là ngồi yên. Chúng ta thường quan niệm ngồi một mình trong rừng vắng, dưới cội cây, hoặc trên thiền đường, hoặc trong thất riêng mới là ngồi yên. Nhưng cư sĩ Duy-ma-cật nói, ngồi yên là ngay khi đang sống trong tam giới mà không hiện thân ý. Nghĩa là ngay trong tam giới mà vẫn biết thân là huyễn hóa không thật, tâm ý hư vọng, không loạn động mới thật là ngồi yên. Còn chúng ta ngồi nghiêm chỉnh trong thiền đường mà chấp thân thật, đó là còn hiện thân. Tâm ý cứ chạy lăng xăng, nghĩ hết việc này đến việc khác là động, chứ chưa phải ngồi yên. Như vậy, khi nào thân ý không động mới gọi là ngồi yên.

Không khởi Diệt tận định mà hiện các oai nghi, ấy gọi là ngồi yên. Hàng Nhị thừa khi nhập Diệt tận định thân dường như chết, chỉ còn chút hơi ấm mà không còn hơi thở. Người bình thường không còn hơi thở gọi là chết. Cư sĩ Duy-ma-cật nói, không khởi tức không xả Diệt tận định, là hằng sống trong Diệt tận định mà hiện các oai nghi, mới là ngồi yên; còn nhập Diệt tận định ngồi yên như chết, ngưng hoạt động, không phải là yên thật. Ở đây ý muốn nói, đi đứng nằm ngồi, mọi hành động bình thường mà tâm như người nhập Diệt tận định. Lục Tổ cũng nói, nếu thấy có xuất nhập là còn động, chưa phải đại định.

Không bỏ đạo pháp mà hiện việc phàm phu, ấy là ngồi yên. Không xả đạo pháp là sống đúng với tinh thần đạo pháp mà làm các việc phàm phu. Như cuốc rẫy, làm ruộng v.v... chỉ biết việc mình đang làm không nghĩ nhớ xa xôi, không suy tính trúng thất. Làm mọi việc mà tâm không rời đạo pháp, đó mới thật ngồi yên.

Tâm không trụ trong cũng không ở ngoài, ấy là ngồi yên. Chúng ta hoặc là thấy tâm ở trong hoặc là thấy tâm chạy ra ngoài. Khi phóng ra thì thấy tâm ở ngoài, khi không phóng nghĩ là đang yên ở trong. Tâm thật thì trùm khắp, không ở trong không ở ngoài, đó mới thật là ngồi yên.

Đối các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ấy là ngồi yên. Muốn tu theo chánh pháp, phải diệt tà kiến mới được chánh kiến. Ở đây tà kiến không cần diệt, chỉ cần tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đã hành chánh kiến. Đó mới là ngồi yên.

Không đoạn phiền não mà vào Niết-bàn, ấy là ngồi yên. Nếu có thể ngồi như thế thì Phật sẽ ấn chứng cho. Chúng ta thấy nên đoạn phiền não để vào Niết-bàn, cư sĩ Duy-ma-cật cho rằng không đoạn phiền não mà vào Niết-bàn mới là ngồi yên, mới được Phật ấn chứng.

Đoạn này ý cư sĩ Duy-ma-cật chỉ cho tôn giả Xá-lợi-phất cũng như chúng ta biết, muốn được yên không phải thân tướng ở chỗ vắng vẻ mới yên, mà tâm không còn thấy hai, đó mới thật là yên.

MỤC-KIỀN-LIÊN

Chánh văn:

Phật bảo ngài Đại Mục-kiền-liên:

- Ông đi đến thăm bệnh Duy-ma-cật.

Ngài Mục-kiền-liên bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa vào đại thành Tỳ-da-ly, ở trong đường hẻm, vì các người cư sĩ nói pháp. Khi ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con:

“Thưa ngài Đại Mục-kiền-liên, vì bạch y cư sĩ nói pháp, không phải như nhân giả đã nói. Phàm nói pháp phải như pháp mà nói. Pháp không có chúng sanh vì lìa chúng sanh cấu. Pháp không có ngã vì lìa ngã cấu. Pháp không thọ mạng vì lìa sanh tử. Pháp không có người vì mé trước mé sau dứt. Pháp thường lặng lẽ vì diệt các tướng. Pháp lìa nơi tướng vì không có sở duyên. Pháp không có danh tự vì ngôn ngữ đoạn. Pháp không có thuyết vì lìa giác quán. Pháp không hình tướng vì như hư không. Pháp không hý luận vì cứu cánh không. Pháp không ngã sở vì lìa ngã sở. Pháp không phân biệt vì lìa các thức. Pháp không so sánh vì lìa đối đãi. Pháp chẳng thuộc nhân vì không thuộc duyên. Pháp đồng pháp tánh vì vào các pháp. Pháp tùy nơi như vì không chỗ tùy. Pháp trụ thật tế vì các bên không động. Pháp không dao động vì chẳng nương nơi sáu trần. Pháp không đến đi vì thường không trụ. Pháp thuận không, tùy vô tướng, ứng vô tác. Pháp lìa đẹp xấu, pháp không tăng giảm, pháp không sanh diệt, pháp không chỗ trở về. Pháp vượt ra ngoài mắt tai mũi lưỡi thân tâm. Pháp không cao thấp, pháp thường trụ chẳng động, pháp lìa tất cả quán hạnh. Thưa ngài Đại Mục-kiền-liên, pháp tướng như thế, há có thể nói ư?

Phàm người thuyết pháp không nói không chỉ. Người nghe pháp kia không nghe không được. Ví như thầy huyễn vì người huyễn nói pháp. Phải dựng lập ý này mà vì người nói pháp. Phải biết rõ căn cơ chúng sanh có lợi độn, khéo nơi tri kiến không bị chướng ngại, dùng tâm đại bi mà tán thán Đại thừa, nhớ đền ơn Phật, không rời bỏ Tam bảo, sau đó mới nói pháp."

Khi ông Duy-ma-cật nói lời ấy, tám trăm cư sĩ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Con không có biện tài này, thế nên không thể đến thăm bệnh ông được.

Giảng:

Tôn giả Xá-lợi-phất và tôn giả Mục-kiền-liên là hai vị thượng thủ trong giáo đoàn của Phật. Đầu tiên là tôn giả Xá-lợi-phất đã xin rút lui, bây giờ đến tôn giả Mục-kiền-liên. Ngài kể lại, có lần trong đường hẻm đang thuyết pháp cho cư sĩ nghe, cư sĩ Duy-ma-cật đến bảo rằng, nói pháp không phải như tôn giả nói, phải như pháp mà nói. Thường các vị đệ tử của Phật cũng như chúng ta bây giờ, nói pháp là đứng trên tướng của các pháp mà phân biệt giảng nói, đó là nói theo pháp tướng. Còn cư sĩ Duy-ma-cật bảo như pháp mà nói, là đi thẳng vào pháp tánh chứ không theo pháp tướng.

Như chúng ta nói pháp ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tứ đế, thập nhị nhân duyên... là nói trên tướng. Còn pháp tánh là pháp không có chúng sanh, vì lìa chúng sanh, vì không còn cấu nhơ của chúng sanh. Pháp tánh đó không có ngã vì lìa ngã cấu... Như vậy, đứng về mặt pháp tánh thì không có tất cả.

Pháp tùy nơi như vì không chỗ tùy. Pháp trụ thật tế vì các bên không động. Pháp là pháp tánh, như là như như. Pháp tánh không sanh không diệt, không dao động nên nó là như. Bởi như nên không có chỗ tùy, nói tùy mà không có chỗ tùy. Pháp tánh trụ mé chân thật, vì không bên này bên kia nên không động.

Pháp thuận không, tùy vô tướng, ứng vô tác. Pháp tánh không tướng nên nói thuận không, không tướng nên gọi là tùy vô tướng, bởi vô tướng nên không tạo tác gọi là ứng vô tác.

Pháp lìa đẹp xấu, pháp không tăng giảm, pháp không sanh diệt, pháp không chỗ trở về. Pháp vượt ra ngoài mắt tai mũi lưỡi thân tâm. Nếu thấy có đẹp xấu, thêm bớt, sanh diệt là còn đứng trên pháp tướng. Pháp tánh không có tất cả thứ đó nên nói vượt ra ngoài cả mắt tai mũi lưỡi thân tâm.

Phàm người thuyết pháp không nói không chỉ. Người nghe pháp kia không nghe không được. Pháp tánh không thể nói, không chỉ bày được. Vừa mở miệng nói là đối đãi, là tướng chứ không phải tánh. Pháp tánh thì lấy gì nghe? Nếu nghe ngôn ngữ thì ngôn ngữ thuộc về đối đãi, nên nói người nghe pháp không nghe, không được. Như vậy pháp tánh là tự khế hợp, nghe pháp tánh cũng tự nhận ra, còn có nói có nghe là không thật.

Ví như thầy huyễn vì người huyễn nói pháp. Phải dựng lập ý này mà vì người nói pháp. Người nói pháp phải thấy mình là huyễn, người nghe cũng huyễn, là không chấp có ngã có nhân, như vậy mới đúng tinh thần nói pháp. Nếu thấy người nói người nghe là thật, là còn đối đãi. Khi nói pháp, chúng ta thường chỉ dạy, đây là pháp thiện nên tu pháp ác nên bỏ. Nhưng phải thấy thiện ác đều không thật, vì còn trong sanh diệt, thuộc về pháp tướng.

Phải biết rõ căn cơ chúng sanh có lợi độn, khéo nơi tri kiến không bị chướng ngại, dùng tâm đại bi mà tán thán Đại thừa, nhớ đền ơn Phật, không rời bỏ Tam bảo, sau đó mới nói pháp. Nói pháp phải biết căn cơ chúng sanh, khéo đối với thấy biết không bị chướng ngại, dùng tâm đại bi tán thán pháp Đại thừa để đền ơn Phật, không rời bỏ Tam bảo, mới nên nói pháp.

Chúng ta chưa có tha tâm thông làm sao biết được căn cơ chúng sanh. Như có người đến tha thiết học đạo, trước phải hỏi họ đã xem qua những kinh sách gì, ứng dụng pháp tu nào... Nhờ trình bày mới biết sự tu học của họ tới đâu. Do đó dễ gần và hiểu được tâm ý của người. Có nhiều sư trẻ, thấy đạo lý hay quá, gặp ai cũng muốn thuyết giảng mà không cần biết họ có hiểu không, đó là chưa kinh nghiệm. Ở đây dạy, phải biết căn cơ lợi độn của chúng sanh, khéo đối với sự thấy biết không bị chướng ngại và khởi tâm đại bi, đề cao pháp Đại thừa. Như vậy nói pháp là đền ơn Phật, chứ không phải để chứng tỏ mình thông hiểu Phật pháp. Đó mới xứng đáng là người nói pháp.

Tóm lại, tôn giả Mục-kiền-liên nói pháp cho cư sĩ là đứng về mặt pháp tướng, chia chẻ phân tích cho họ hiểu. Còn cư sĩ Duy-ma-cật cho rằng nói pháp như vậy là không hợp, phải nói thẳng nơi pháp tánh. Nhưng rốt ráo của pháp tánh là không có người hay nói và cũng không có người nghe. Đó là tinh thần nói pháp cứu cánh chân thật của cư sĩ Duy-ma-cật.

ĐẠI CA-DIẾP

Chánh văn:

Phật bảo ngài Đại Ca-diếp:

- Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Ca-diếp bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Nhớ thuở xưa, con đi khất thực trong xóm nghèo, khi ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con: “Thưa tôn giả Đại Ca-diếp, có lòng từ bi mà không rộng khắp, bỏ nhà giàu đến nhà nghèo khất thực. Ngài Ca-diếp, phải trụ nơi pháp bình đẳng, nên theo thứ lớp mà khất thực. Vì không ăn nên đi khất thực. Vì phá hoại tướng hòa hợp nên nhận thức ăn từng nắm. Vì không thọ nên nhận thức ăn kia. Vì dùng tưởng không tụ vào trong xóm làng. Thấy sắc cùng với người mù đồng, nghe tiếng cùng với âm vang đồng, ngửi mùi hương cùng với gió đồng, nếm vị không phân biệt, thọ các xúc như trí chứng, biết các pháp như tướng huyễn. Không tự tánh, không tha tánh. Vốn tự không sanh, nay cũng không diệt. Này Ca-diếp, nếu hay không xả tám tà vào tám giải thoát, dùng tướng tà vào chánh pháp. Dùng một bữa ăn thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và các bậc hiền thánh, sau đó mới có thể ăn. Ăn như thế không phiền não không lìa phiền não. Chẳng vào định ý cũng chẳng khởi định ý. Không trụ thế gian cũng không trụ Niết-bàn. Người thí không có phước lớn không có phước nhỏ, không được lợi ích không bị tổn hại, ấy chính là vào Phật đạo, không y nơi hàng Thanh văn. Ngài Ca-diếp, nếu ăn như thế là không uổng thức ăn của thí chủ.”

Bạch Thế Tôn! Khi con nghe nói lời này rồi, được việc chưa từng có, liền đối với tất cả Bồ-tát sâu khởi tâm cung kính, lại khởi nghĩ thế này: “Đây là hàng danh tiếng được biện tài trí tuệ mới có thể nói được như thế! Ai nghe mà không phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Từ đây về sau, con không dám dùng pháp Thanh văn hay Bích-chi Phật để khuyên dạy người thực hành. Thế nên con không kham đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Giảng:

Pháp khất thực của hai tôn giả Ca-diếp và Tu-bồ-đề là có tâm thiên lệch. Tôn giả Ca-diếp thì thương người nghèo nên đi khất thực trong xóm nghèo để họ gieo căn lành, sau này mới thoát khỏi cái nghèo. Nếu sợ họ nghèo không dám đến yêu cầu làm phước thì tâm ích kỷ của họ càng tăng, làm sao đời sau có phước. Vì muốn chuyển tâm của họ, từ nghèo trở thành giàu, nên ngài tìm đến nhà nghèo để khất thực, ngay cả người cùi... cũng xin của họ nữa. Qua đó chúng ta thấy, phải là người có tâm từ bi mới làm được như vậy. Ngược lại tôn giả Tu-bồ-đề thì khất thực nhà giàu. Ngài quan niệm đơn giản, họ dư mình xin một chút đâu có tổn hại gì. Như vậy việc khất thực không làm thiệt thòi cho người cúng. Đây cũng là lòng từ bi của ngài. Hai vị đại đệ tử này, một bên thì muốn gieo duyên với người nghèo, một bên lại nghĩ xin người giàu không làm họ khó khổ và thiệt thòi. Như vậy cả hai ngài đều vì lòng từ bi, nhưng tâm còn thiên lệch.

Cư sĩ Duy-ma-cật thấy tôn giả Ca-diếp đến xóm nghèo khất thực nên nói, tôn giả đi khất thực mà bỏ người giàu xin người nghèo là lòng từ bi không bình đẳng. Ngài phải trụ nơi pháp bình đẳng, theo thứ lớp mà khất thực, theo thứ tự từng nhà, đến đâu người ta cho thì nhận, chứ không lựa chọn giàu nghèo. Đó mới gọi là bình đẳng.

Vì không ăn nên đi khất thực. Không ăn thì đi khất thực làm gì? Chữ thực ở đây không có nghĩa là ăn, mà có nghĩa là tâm duyên theo sáu trần. Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, tâm không dính mắc nghĩa là không ăn. Không ăn như vậy mới xứng đáng đi khất thực. Nếu là thân này thì phải có ăn để nuôi mạng sống tu hành. Tu để nhận ra pháp thân, sống với pháp thân. Mà pháp thân đâu có ăn. Nhận được lý đó mới nên đi khất thực.

Vì phá hoại tướng hòa hợp nên nhận thức ăn từng nắm. Hòa hợp tướng là chỉ thân tứ đại hay thân ngũ uẩn hòa hợp, giả dối không thật. Sở dĩ đi khất thực là vì cầu sự giải thoát, chứ không phải muốn tiếp tục nuôi dưỡng thân giả tướng này. Khất thực như thế mới đúng pháp.

Vì không thọ nên nhận thức ăn kia. Chúng ta có năm giác quan. Năm giác quan đó đối với năm trần có cảm thọ. Còn pháp thân thì không cảm thọ. Vì vậy nói phải dùng không thọ mà đi khất thực.

Vì dùng tưởng không tụ vào trong xóm làng. Tưởng không tụ tức là tưởng thân này giống như một chỗ trống, không người, không thật, không chủ tức là vô ngã. Nếu vào trong xóm làng khất thực mà tâm vô ngã thì không bị dính mắc.

Thấy sắc cùng với người mù đồng, nghe tiếng cùng với âm vang đồng. Người mù thì không thấy sắc. Thấy sắc mà sao như mù được? Vì thấy mà không có niệm phân biệt đẹp xấu, nên nói thấy như mù. Nghe tiếng khen chê tưởng như tiếng vang trong núi dội lại thì đâu có giận đâu có mừng. Nhưng chúng ta nghe chê thì buồn, nghe khen lại vui, là tại sao? Là vì mình chưa sống với pháp bình đẳng đó.

Ngửi mùi hương cùng với gió đồng. Ngửi mùi thơm hôi cũng như gió thoảng, qua rồi mất, đừng để nó chi phối.

Nếm vị không phân biệt, thọ các xúc như trí chứng. Khi thức ăn vào lưỡi không khởi phân biệt, chứ không phải không biết ngon dở. Chỗ này có lắm người nghe nói không phân biệt ngon dở thì tưởng lầm ăn mà không biết gì hết. Nếu không biết ngon dở thì lưỡi đã mất cảm giác. Như vậy không phân biệt nghĩa là sao? Vị vào lưỡi vẫn biết ngon dở, nhưng không ưa ngon ghét dở, gọi là không phân biệt. Thế mới đúng là nếm vị mà không phân biệt.

Tóm lại, mắt thấy như mù là thấy mà không phân biệt đẹp xấu. Thấy đẹp vẫn biết đẹp, xấu vẫn biết xấu, nhưng không có niệm đuổi theo cái đẹp chán ghét cái xấu, thì gọi là như mù. Lưỡi nếm vị ngon biết ngon, dở biết dở, nhưng ngon không luyến dở không chán ghét, đó gọi là không phân biệt vị. Khi xúc chạm, trí liền nhận biết đúng như thật, chứ không phải theo cảm giác. Thường khi xúc chạm là có cảm giác, những cảm giác đó có ưa thích, vui buồn. Nhưng sự cảm thọ và xúc chạm, mình đều thấy như huyễn như hóa không thật có, do đó tâm không nhiễm trước, nên gọi là thọ các xúc như trí chứng.

Biết các pháp như tướng huyễn. Không tự tánh, không tha tánh. Vốn tự không sanh, nay cũng không diệt. Các pháp ở thế gian này đều là tướng hư huyễn. Vì không tự tánh, không tha tánh, do duyên sanh nên nó không thật có. Như muốn có cái bàn, phải đủ các duyên gỗ, đinh, thợ mộc... hợp lại mới thành. Cái bàn vốn không tự tánh, gỗ đinh thợ mộc đều không thật có nên cũng không tha tánh. Tự tánh tha tánh đã không thì cái gì sanh diệt? Không sanh diệt tức là vô sanh. Cho nên nói xưa không sanh nay cũng không diệt.

Này Ca-diếp, nếu hay không xả tám tà vào tám giải thoát, dùng tướng tà vào chánh pháp. Dùng một bữa ăn thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và các bậc hiền thánh, sau đó mới có thể ăn. Ở đây chỉ cho pháp vượt ngoài đối đãi, bình đẳng không phân biệt tà chánh, trói buộc hay giải thoát, tức không còn kẹt hai bên. Ngay trong tà đã có chánh, trong phiền não có giải thoát, trong sanh tử có Niết-bàn. Được như vậy mới có thể dùng một bữa ăn cúng dường chư Phật, chư hiền thánh và bố thí cho tất cả, rồi sau mới ăn. Vì đã có tâm bình đẳng, nên món ăn dù ít cũng trùm khắp không bị hạn cuộc.

Ăn như thế không phiền não không lìa phiền não. Chẳng vào định ý cũng chẳng khởi định ý. Không trụ thế gian cũng không trụ Niết-bàn. Người thí không có phước lớn không có phước nhỏ, không được lợi ích không bị tổn hại, ấy chính là vào Phật đạo, không y nơi hàng Thanh văn. Ngài Ca-diếp, nếu ăn như thế là không uổng thức ăn của thí chủ.

Đã thấy các pháp bình đẳng tức là nhất tướng bình đẳng thì đâu còn thấy hai bên, phiền não và lìa phiền não, không nhập định và xuất định, không trụ thế gian và trụ Niết-bàn. Người thí thấy các pháp bình đẳng thì không có phước lớn phước nhỏ, không tăng không giảm, không lợi ích không tổn hại. Không nương nơi hàng Thanh văn, vì Thanh văn còn nhìn trên đối đãi. Được vậy mới thẳng vào Phật đạo, mới đúng là hành Phật đạo. Người nhận thức ăn như thế mới không uổng công thí chủ cúng dường.

Tóm lại, đoạn này cư sĩ Duy-ma-cật muốn nhắc ngài Ca-diếp, người khất thực phải có tâm bình đẳng không còn thấy hai mới đi thẳng vào Phật đạo.

Bạch Thế Tôn! Khi con nghe nói lời này rồi, được việc chưa từng có, liền đối với tất cả Bồ-tát sâu khởi tâm cung kính, lại khởi nghĩ thế này: “Đây là hàng danh tiếng được biện tài trí tuệ mới có thể nói được như thế! Ai nghe mà không phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Từ đây về sau, con không dám dùng pháp Thanh văn hay Bích-chi Phật để khuyên dạy người thực hành. Thế nên con không kham đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Tôn giả Ca-diếp khi thuật lại câu chuyện bị cư sĩ Duy-ma-cật vấn nạn, liền tỏ ngộ điều chưa từng có, phát khởi thâm tâm cung kính đối với tất cả các vị Bồ-tát. Ngài lại thẩm thán phục đây là bậc biện tài trí tuệ, ai nghe mà không phát tâm Bồ-đề. Như vậy chính ngài đã chuyển tâm niệm, không còn chấp pháp của hàng Nhị thừa. Đó là điểm đặc biệt của tôn giả Ca-diếp khác hơn những vị trước.

TU-BỒ-ĐỀ

Chánh văn:

Phật bảo ngài Tu-bồ-đề:

- Ông đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Nhớ lại thuở xưa, con vào nhà ông Duy-ma-cật khất thực, khi ấy ông nhận bát của con, sớt thức ăn đầy bát, bảo con rằng: “Thưa ngài Tu-bồ-đề, nếu đối với thức ăn bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng, các pháp bình đẳng thì đối với thức ăn cũng bình đẳng. Hành khất thực như thế mới nên nhận lấy thức ăn.

Nếu ngài Tu-bồ-đề không đoạn tham sân si cũng không chung cùng với nó. Không phá hoại thân mà tùy nhất tướng. Không diệt si ái mà khởi được giải thoát. Do tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, cũng không mở không trói. Không thấy tứ đế và không phải không thấy tứ đế. Không được quả cũng không phải không được quả. Không phàm phu, không lìa pháp phàm phu. Không thánh nhân, không chẳng thánh nhân. Tuy thành tựu tất cả pháp mà lìa tướng các pháp, mới có thể nhận thức ăn.

Nếu ngài Tu-bồ-đề không thấy Phật, không nghe pháp, những lục sư ngoại đạo kia là Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử, San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử, A-kỳ-đa-xí-xá Kham-bà-la, Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên, Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử, đó là thầy của ông. Nhờ những lục sư ngoại đạo đó mà ông xuất gia, những ông thấy đó đọa thì ông cũng phải đọa, như vậy mới nên nhận thức ăn.

Nếu ngài Tu-bồ-đề vào trong các tà kiến không đến bờ kia. Trụ nơi tám nạn, chẳng được không nạn. Đồng với phiền não, lìa pháp thanh tịnh. Ông được Vô tránh tam-muội, tất cả chúng sanh cũng được định ấy. Người thí cho ông không gọi là phước điền. Người cúng dường cho ông rơi vào ba đường ác. Ông và chúng ma nắm tay nhau làm bạn lữ, ông cùng với chúng ma và các trần lao đồng nhau không khác. Đối với tất cả chúng sanh có tâm oán, chê bai Phật hủy báng pháp, không vào chúng tăng, trọn không được diệt độ. Ông nếu như thế mới nên nhận thức ăn.”

Bạch Thế Tôn! Khi con nghe lời nói này, mờ mịt không biết phải nói gì, không biết dùng lời nào để đáp. Con liền để bát xuống, muốn chạy ra khỏi nhà ông. Ông Duy-ma-cật nói: “Thưa ngài Tu-bồ-đề, nhận bát chớ có sợ. Ý ông nghĩ sao? Như đức Như Lai hóa ra một người, người ấy đem việc này hỏi ông thì ông đâu có sợ phải không?" Con nói: “Không vậy.” Ông Duy-ma-cật nói: “Tất cả các pháp như tướng huyễn hóa, nay ông không nên sợ. Vì cớ sao? Tất cả lời nói không lìa tướng ấy. Đến với người trí, không chấp văn tự nên không sợ. Vì cớ sao? Tánh văn tự lìa, không có văn tự, ấy là giải thoát. Tướng giải thoát ắt là các pháp vậy."

Khi ông Duy-ma-cật nói pháp này, hai trăm thiên tử được pháp nhân trong sạch, thế nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Nếu ngài Tu-bồ-đề không đoạn tham sân si cũng không chung cùng với nó. Không phá hoại thân mà tùy nhất tướng. Không diệt si ái mà khởi được giải thoát. Do tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, cũng không mở không trói. Không thấy tứ đế và không phải không thấy tứ đế. Không được quả cũng không phải không được quả. Không phàm phu, không lìa pháp phàm phu. Không thánh nhân, không chẳng thánh nhân. Tuy thành tựu tất cả pháp mà lìa tướng các pháp, mới có thể nhận thức ăn.

Đoạn này nói đến chỗ chân thật bình đẳng không hai. Trong tham sân si có giải thoát, giải thoát là từ tham sân si. Hai pháp đó không rời nhau, không riêng khác, nên không giải thoát cũng không trói buộc. Không thấy tứ đế cũng không chẳng thấy tứ đế... cả hai bên đều không có, được như vậy là thấy pháp bình đẳng, mới nên nhận thức ăn.

Pháp không có hai bên, còn đối đãi không phải là pháp thật. Chúng ta thường nói tu là diệt sạch tham sân si mới giải thoát. Như có người bị trói chặt vào thân cây bằng ba sợi dây, muốn thoát khỏi ba sợi dây đó thì phải mở, vậy mở là từ trói mới có. Tất cả chúng ta, lẽ thật đâu có ai bị trói mà cần phải mở. Trói mở chỉ là tạm thời. Cũng vậy, lập giải thoát khi nào thấy có triền phược. Triền phược không thì giải thoát cũng không. Trên giả tướng có triền phược có giải thoát, còn trên tánh thì không. Mọi đối đãi đều không phải là pháp tánh. Nếu nhận được pháp tánh mới xứng đáng đi khất thực.

Nếu ngài Tu-bồ-đề không thấy Phật, không nghe pháp, những lục sư ngoại đạo kia là Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử, San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử, A-kỳ-đa-xí-xá Kham-bà-la, Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên, Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử, đó là thầy của ông. Nhờ những lục sư ngoại đạo đó mà ông xuất gia, những ông thấy đó đọa thì ông cũng phải đọa, như vậy mới nên nhận thức ăn.

Không thấy Phật là không chấp Phật, không nghe pháp là không kẹt nơi pháp. Quan niệm của chúng ta đối với Phật pháp luôn tôn sùng, còn đối với ngoại đạo thì chống đối. Đó là tâm không bình đẳng. Không chống đối tức hòa thuận, nghĩa là xem như vị thầy xuất gia của mình, nên thầy đọa trò cũng đọa theo.

Nhưng ở đây lục sư ngoại đạo theo thiền sư giảng, ngầm ý chỉ cho sáu căn. Chúng ta tu cũng căn cứ trên sáu căn mà chuyển. Sáu căn chạy theo sáu trần gọi là bị đọa, không chạy theo gọi là xuất gia, là giải thoát. Như vậy là thoát khỏi sự chấp trước nơi căn trần, đó mới kham thọ nhận thức ăn.

Nếu ngài Tu-bồ-đề vào trong các tà kiến không đến bờ kia. Trụ nơi tám nạn, chẳng được không nạn. Đồng với phiền não, lìa pháp thanh tịnh. Ông được Vô tránh tam-muội, tất cả chúng sanh cũng được định ấy. Người thí cho ông không gọi là phước điền. Người cúng dường cho ông rơi vào ba đường ác. Ông và chúng ma nắm tay nhau làm bạn lữ, ông cùng với chúng ma và các trần lao đồng nhau không khác. Đối với tất cả chúng sanh có tâm oán, chê bai Phật hủy báng pháp, không vào chúng tăng, trọn không được diệt độ. Ông nếu như thế mới nên nhận thức ăn.

Những câu này nghe thật lạ lùng. Ngài Huệ Nam mỗi khi đến thưa hỏi đạo lý với thiền sư Từ Minh, đều bị Sư mắng chửi đuổi ra. Đến khi không còn kham nhẫn nổi, Huệ Nam nói:

- Mắng chửi đâu phải quy củ từ bi thí pháp!

Ngài Từ Minh cười nói:

- Đó là mắng chửi sao?

Ngay câu này ngài Huệ Nam đại ngộ.

Đây cũng vậy, vì ngôn ngữ là không thật, là tánh ly. Những lời cư sĩ Duy-ma-cật nói với tôn giả Tu-bồ-đề là dùng ngôn ngữ ngược lẽ thường. Như người thí không có phước, người cúng dường rơi vào ba đường ác, ông là bạn của chúng ma và đồng các trần lao không khác, có tâm oán giận chúng sanh, chê bai Phật hủy báng pháp... Vì ngôn ngữ không thật, nếu chấp là thật tức còn mê muội.

Bạch Thế Tôn! Khi con nghe lời nói này, mờ mịt không biết phải nói gì, không biết dùng lời nào để đáp. Con liền để bát xuống, muốn chạy ra khỏi nhà ông. Ông Duy-ma-cật nói: “Thưa ngài Tu-bồ-đề, nhận bát chớ có sợ. Ý ông nghĩ sao? Như đức Như Lai hóa ra một người, người ấy đem việc này hỏi ông thì ông đâu có sợ phải không?" Con nói: “Không vậy.” 

Ông Duy-ma-cật nói: “Tất cả các pháp như tướng huyễn hóa, nay ông không nên sợ. Vì cớ sao? Tất cả lời nói không lìa tướng ấy. Đến với người trí, không chấp văn tự nên không sợ. Vì cớ sao? Tánh văn tự lìa, không có văn tự, ấy là giải thoát. Tướng giải thoát ắt là các pháp vậy."

Tôn giả Tu-bồ-đề nghe những lời nói táo bạo đó liền hoảng sợ, muốn để bát xuống bỏ chạy. Cư sĩ Duy-ma-cật giải thích với tôn giả Tu-bồ-đề, những ngôn ngữ tôi nói là không thật, mà ngài thấy thật là còn mê còn chấp. Còn mê chấp thì không đáng thọ thực. Như vậy mới thấy ý của cư sĩ Duy-ma-cật.

Tóm lại, với tôn giả Tu-bồ-đề thì cư sĩ Duy-ma-cật nói từng phần. Phần trước chỉ cho khất thực phải tâm bình đẳng, thấy pháp bình đẳng. Phần kế phải chuyển được sáu căn đến chỗ giải thoát. Phần sau phải thấy ngôn ngữ văn tự là không thật. Như vậy mới xứng đáng nhận thức ăn.

PHÚ-LÂU-NA

Chánh văn:

Phật bảo ngài Phú-lâu-na Di-da-la-ni Tử:

- Ông hãy đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Phú-lâu-na bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đi đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa trong rừng Đại Lâm, ở dưới cội cây vì các vị tân học Tỳ-kheo nói pháp. Khi ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con: “Thưa ngài Phú-lâu-na, trước phải nhập định, quán tâm của những người này, sau đó mới nói pháp. Không nên đem đổ nhơ để trong bát báu, phải biết tâm niệm của các thầy Tỳ-kheo này, không nên cho lưu ly đồng với thủy tinh kia. Ông không thể biết căn nguyên của chúng sanh, không được dùng pháp Tiểu thừa phát khởi. Những người kia tự không thương tích, ông chớ làm thành thương tích. Muốn đi con đường lớn, chớ chỉ lối nhỏ. Không đem biển cả để vào dấu chân trâu. Không đem ánh sáng mặt trời sánh với ánh sáng đom đóm. Thưa ngài Phú-lâu-na, những vị Tỳ-kheo này xưa kia phát tâm Đại thừa, giữa chừng quên ý này, sao lại dùng pháp Tiểu thừa mà hướng dẫn họ? Tôi xem trí tuệ Tiểu thừa rất là cạn cợt, giống như người mù, không thể phân biệt tất cả căn cơ lợi độn của chúng sanh."

Khi ấy ông Duy-ma-cật liền nhập định, khiến cho những vị Tỳ-kheo này tự nhớ lại túc mạng, từng ở chỗ năm trăm đức Phật gieo trồng cội gốc công đức, hồi hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền khi đó hoát nhiên nhớ được tâm trước. Lúc đó các thầy Tỳ-kheo này cúi đầu lễ dưới chân ông Duy-ma-cật. Khi ông Duy-ma-cật nhân vì họ nói pháp thì những vị đó đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không còn thối chuyển. Con nghĩ hàng Thanh văn không quán được căn cơ chúng sanh thì không nên nói pháp, thế nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, chữ Hán dịch là Mãn Từ Tử. Khi Phật nói những bài pháp đơn giản ngắn gọn, chư Tỳ-kheo không hiểu đến hỏi, Tôn giả giảng rộng ra cho mọi người đều hiểu. Vì vậy ngài được nổi tiếng là người nói pháp rất tài giỏi, là đại đệ tử thuyết pháp bậc nhất của Phật. Vậy mà cư sĩ Duy-ma-cật chê trách tôn giả Phú-lâu-na thậm tệ. Thuyết pháp mà không biết căn cơ chúng sanh, chẳng khác nào đem món ăn dơ để trong bát báu, đem ngọc lưu ly sánh với thủy tinh, đem pháp Tiểu thừa để giáo hóa; không nên đem nước biển cả đổ vào dấu chân trâu... Nhưng chúng ta chỉ nghe tôn giả Phú-lâu-na thuật lại, gần như mạt sát mình cho hội chúng nghe, chứ không nghe từ miệng cư sĩ Duy-ma-cật nói. Qua đó chúng ta thấy tinh thần vô ngã của Tôn giả. Đương thời là người thuyết pháp đệ nhất, vậy mà ngài không chút phiền muộn khi nghe những lời chỉ trích thậm tệ từ một ông cư sĩ, mà còn nể phục.

Tóm lại, cư sĩ Duy-ma-cật nói, muốn thuyết pháp phải biết trình độ căn cơ của người, mới có lợi ích cho họ. Như cư sĩ Duy-ma-cật nhập định khiến người nghe nhớ được bản tâm, biết được túc mạng. Còn chúng ta không nhập định được, phải dò dẫm để biết trình độ căn cơ sở thích của họ thì khi giảng pháp người nghe mới có thể nhận hiểu được.

CA-CHIÊN-DIÊN

Chánh văn:

Phật bảo ngài Ma-ha Ca-chiên-diên:

- Ông đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Ca-chiên-diên bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa, Phật vì các thầy Tỳ-kheo lược nói pháp yếu, con liền sau đó diễn bày nghĩa kia, nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt. Khi ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con: “Thưa ngài Ca-chiên-diên, không nên dùng tâm hạnh sanh diệt mà nói pháp thật tướng. Này Ca-chiên-diên, các pháp rốt ráo không sanh không diệt, ấy là nghĩa vô thường. Ngũ thọ ấm rỗng suốt không chỗ khởi, ấy là nghĩa khổ. Các pháp cứu cánh không chỗ có, ấy là nghĩa không. Ngã và vô ngã không hai, ấy là nghĩa vô ngã. Pháp xưa không sanh nay ắt không diệt, ấy là nghĩa tịch diệt.”

Khi ông nói pháp này, những vị Tỳ-kheo đó tâm liền được giải thoát. Cho nên con không thể đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Tôn giả Ca-chiên-diên là người nổi tiếng luận nghị đệ nhất. Khi Tôn giả đang diễn bày pháp yếu của Phật dạy về vô thường, khổ, không, vô ngã và Niết-bàn cho những vị Tỳ-kheo nghe, liền bị cư sĩ Duy-ma-cật quở: Không nên dùng tâm hạnh sanh diệt để nói thật tướng các pháp. Ngài nói về nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã và Niết-bàn tịch tĩnh là còn trên đối đãi, đứng về pháp tướng hư dối mà nói, chứ không phải thật tướng.

Các pháp rốt ráo không sanh không diệt, ấy là nghĩa vô thường. Pháp tướng có sanh diệt nên nói vô thường. Pháp cứu cánh không sanh không diệt, tại sao nói vô thường? Nói vô thường là chỉ cho cái giả tướng duyên hợp. Đứng về pháp tánh thì không sanh không diệt, nhưng duyên hợp thành tướng mới có sanh diệt. Cái không sanh không diệt đâu rời tướng sanh diệt, cho nên nói các pháp cứu cánh không sanh không diệt là nghĩa vô thường. Như cái bàn tánh nó là không, do duyên hợp tạm có, đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, nên có sanh có diệt là pháp vô thường. Như vậy vô thường là chỉ cho giả tướng duyên hợp, còn pháp tánh thì không sanh không diệt.

Ngũ thọ ấm rỗng suốt không chỗ khởi, ấy là nghĩa khổ. Thân của chúng ta do năm ấm chung hợp tạm có, bị chi phối bởi sanh già bệnh chết. Chúng sanh vô minh chấp năm ấm là thật, khi bị sanh diệt thì khổ đau. Nói khổ là trên tướng của năm ấm, còn trên tánh thì năm ấm rỗng suốt, là không. Từ cái tánh đó duyên hợp thành tướng, cho nên nói năm ấm rỗng không không có chỗ khởi, ấy là nghĩa khổ.

Các pháp cứu cánh không chỗ có, ấy là nghĩa không. Các pháp cứu cánh không, vì các pháp vốn không thật có mà do duyên hợp. Không pháp nào tự có nên cứu không. Như vậy mới gọi là nghĩa không.

Ngã và vô ngã không hai, ấy là nghĩa vô ngã. Nếu thấy cái ngã này là thật, vô ngã cũng thật, tức là thấy hai. Mà ngã và vô ngã không rời nhau, nên thấy có hai cái riêng khác là hư dối. Như người thế gian thấy thân này là thật, là hữu ngã. Khi biết tu thấy thân này không thật, không có chủ, là vô ngã. Như vậy hữu ngã, vô ngã cũng căn cứ trên thân này. Nếu không mắc kẹt bên hữu ngã, bên vô ngã tức là một niệm bình đẳng. Đó là nghĩa vô ngã.

Pháp xưa không sanh nay ắt không diệt, ấy là nghĩa tịch diệt. Tịch diệt tức là Niết-bàn. Thường chúng ta nghĩ tịch diệt là lặng lẽ, là đang động rồi dừng. Nhưng đây nói trước không sanh sau không diệt là lặng lẽ tịch diệt. Như Lục Tổ nói: Niệm trước không sanh tức tâm, niệm sau không diệt tức Phật, chính là nghĩa này.

Trước không sanh, nay không diệt. Thấy không sanh không diệt chính là đạt được nghĩa tịch diệt. Ngay thân tứ đại này nếu thấy thật mới có sanh tử, còn nếu không thật thì đâu có sanh tử. Như bóng hiện rồi mất, mất rồi hiện thì sự mất hiện đó không có nghĩa sanh tử, chỉ là cái bóng, là huyễn hóa. Bởi thấy huyễn hóa nên sanh không thật sanh, tử không thật tử, vấn đề sanh tử đã hết, ngay đó là giải thoát. Giải thoát cũng không nói giải thoát mới thật là bất nhị. Như vậy muốn đạt tới chỗ tịch diệt Niết-bàn thì thấy các pháp nguyên thể là không sanh không diệt. Đó là ý nghĩa tịch diệt.

Tóm lại, cư sĩ Duy-ma-cật nói nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã và Niết-bàn là đứng trên pháp tánh. Còn tôn giả Ca-chiên-diên căn cứ trên pháp tướng mà nói, nên đồng với cái thấy hiểu theo nghĩa tương đối của chúng ta.

A-NA-LUẬT

Chánh văn:

Phật bảo ngài A-na-luật:

- Ông đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài A-na-luật bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại ngày xưa, ở một chỗ đi kinh hành, khi đó có Phạm vương tên là Nghiêm Tịnh cùng với muôn vị Phạm vương phóng hào quang sáng suốt, đến chỗ của con cúi đầu làm lễ, hỏi con: “A-na-luật, thiên nhãn của ngài thấy xa được bao nhiêu?” Con liền đáp rằng: “Này nhân giả! Tôi thấy cõi tam thiên đại thiên thế giới của đức Phật Thích-ca-mâu-ni này như xem trái am-ma-lặc ở trong lòng bàn tay."

Khi đó ông Duy-ma-cật đến hỏi con: “Thưa ngài A-na-luật, thiên nhãn của ngài thấy, là làm ra tướng mà thấy hay không làm ra tướng mà thấy? Giả sử làm ra tướng thì cùng với ngũ thông của ngoại đạo không khác. Nếu không làm ra tướng ấy là vô vi, vô vi thì không nên có thấy."

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con lặng thinh. Những vị Phạm vương kia nghe lời nói này rồi thì được chưa từng có. Liền làm lễ mà hỏi rằng: “Ở trên đời này ai có được chân thiên nhãn?"

Ông Duy-ma-cật đáp: “Có đức Phật Thế Tôn được chân thiên nhãn, thường ở trong chánh định, thảy đều thấy các cõi chư Phật không do hai tướng.”

Khi ấy, Phạm vương Nghiêm Tịnh và quyến thuộc năm trăm vị Phạm thiên đều được phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lễ dưới chân ông Duy-ma-cật, bỗng nhiên biến mất. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Đoạn này chúng ta thấy cái nhìn của cư sĩ Duy-ma-cật khác với tôn giả A-na-luật. Tôn giả A-na-luật được thiên nhãn, thấy thế giới đức Phật Thích-ca giáo hóa không chỉ cõi Ta-bà, mà cả tam thiên đại thiên thế giới, giống như nhìn trái ổi hay trái xoài trong lòng bàn tay rõ ràng không khác. Cái thấy đó quá sức tưởng tượng của mọi người. Nhưng bị cư sĩ Duy-ma-cật gạn hỏi, ngài thấy đó là do có tướng mà thấy hay không tướng mà thấy? Nếu có tướng mà thấy thì giống như ngoại đạo. Ngoại đạo được ngũ thông, trong đó có thiên nhãn thông cũng thấy được rộng như ngài A-na-luật. Nếu không tạo ra tướng mà thấy là vô vi, vô vi làm sao có thấy! Như vậy với cư sĩ Duy-ma-cật, thiên nhãn còn nằm trong đối đãi, chưa phải thiên nhãn chân thật.

Đến đây chư thiên hỏi thế nào là chân thiên nhãn, ai có chân thiên nhãn? Ông đáp, chỉ đức Phật mới có. Chân thiên nhãn của Phật là ngay trong chánh định thấy tất cả cõi nước của chư Phật, không rơi vào hai tướng có không, không kẹt hai bên, hằng sống trong chánh định nên mới có chân thiên nhãn. Tôn giả A-na-luật chỉ thấy thế giới trong phạm vi giáo hóa của đức Phật Thích-ca, cái thấy của đức Phật vượt hơn hẳn ngài A-na-luật, Phật thấy rõ chư Phật ở các cõi nước, danh hiệu của các ngài, đang thuyết pháp gì...

Qua đó chúng ta thấy trên phương diện tu hành, tôn giả A-na-luật tuy tâm được thanh tịnh nhưng còn trong đối đãi, nên cái thấy cũng chưa rộng khắp. Khi nào vượt khỏi đối đãi, tâm hoàn toàn thanh tịnh, hằng sống trong chánh định thì chẳng những nhìn thấy một cõi Phật mà còn thấy hằng hà sa số cõi Phật. Đó là chỗ tu hành, không phải chuyện huyền bí, mà đây là lẽ thật. Do trí tuệ sáng suốt của ngài thấy được rõ ràng chứ không phải ức thuyết hay tưởng tượng. Đức Phật thấy trong bầu hư không này thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Sông Hằng chảy từ núi Tuyết ra tới biển, có chừng bao nhiêu cát? Như sông Đồng Nai, chúng ta còn không thể đếm được số cát của nó, huống nữa là sông Hằng. Thế mà Phật nói cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng. Vậy mới thấy giá trị của sự tu.

Chúng ta tu thiền, cốt cho tâm an định, khi tâm an thì trí sáng, tâm bất an trí rối loạn. Trí sáng đó hiển lộ qua sáu căn nên gọi là lục thông. Do tâm an định, trí tự sáng, đó là thần thông chân thật. Còn thần thông do luyện tập thì có giới hạn. Cho nên những điều Phật nói thật khó hiểu, vì cái thấy của ngài vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Đức Phật nói, điều ta dạy các ngươi giống như lá cây trong nắm tay ta, còn những điều ta biết mà không nói ra, nhiều như lá cây trong rừng.

Thế nên tu đến chỗ tâm thanh tịnh bình đẳng thì hiệu quả không thể nào lường được, không thể dùng trí phàm tục mà biết đến được.

ƯU-BA-LY

Chánh văn:

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

- Ông đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Ưu-ba-ly bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa có hai vị Tỳ-kheo phạm luật hạnh, cho là hổ thẹn không dám hỏi Phật, đến hỏi con: "Thưa ngài Ưu-ba-ly, chúng tôi phạm giới luật, thật là xấu hổ, không dám đến hỏi Phật, cúi mong ngài giải quyết nghi ngờ cho chúng tôi, để được thoát khỏi những lỗi này!”

Con liền đúng như pháp vì họ giải nói. Khi ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con: “Thưa ngài Ưu-ba-ly, không nên thêm tội cho hai thầy Tỳ-kheo này! Phải thẳng trừ diệt, chớ có làm nhiễu loạn tâm hai vị ấy. Vì cớ sao? Vì tánh tội không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa, như lời Phật nói tâm cấu nên chúng sanh cấu, tâm tịnh nên chúng sanh tịnh. Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa, tâm kia như thế, tội cấu như thế, các pháp cũng như thế, không ra ngoài chân như. Như ngài Ưu-ba-ly, khi do tâm tướng được giải thoát, há có cấu chăng?"

Con trả lời: “Không vậy.” Ông Duy-ma-cật nói: “Tất cả chúng sanh tâm tướng không cấu, cũng lại như thế. Thưa ngài Ưu-ba-ly, vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh. Điên đảo là cấu, không điên đảo là tịnh. Chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh. Này ngài Ưu-ba-ly, tất cả pháp sanh diệt không trụ không dừng, như huyễn như điện, các pháp không đối đãi cho đến một niệm cũng không dừng. Các pháp đều là vọng kiến, như mộng, như sóng nắng, như trăng trong nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh. Người biết được như thế mới gọi là giữ giới luật. Người biết được như thế, ấy mới gọi là khéo hiểu.”

Khi ấy hai thầy Tỳ-kheo nói: “Thật là thượng trí thay! Ngài Ưu-ba-ly không thể nào bì kịp, ngài là người giữ giới hơn hết mà cũng không thể nói được.”

Con liền đáp: “Ngoài đức Như Lai ra, chưa có hàng Thanh văn hay Bồ-tát nào có thể chế phục được nhạo thuyết biện tài của ông Duy-ma-cật, trí tuệ minh đạt của ông là như vậy đó.”

Lúc bấy giờ hai thầy Tỳ-kheo liền dứt hết các nghi, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và phát nguyện: “Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được biện tài như thế.” Cho nên con không thể đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Giảng:

Đoạn này chúng ta thấy tôn giả Ưu-ba-ly đứng trên phương diện giới tướng kết tội, giải nghi cho hai vị Tỳ-kheo. Như người phạm giới sát hay dâm dục, về tướng thì đã phạm giới bị kết tội, vì thấy tội đó là thật, không thể giảm chế được. Còn cư sĩ Duy-ma-cật đứng về phương diện tánh để luận tội.

Trong bài sám hối hằng đêm của chúng ta có câu:

Tội tánh bản không do tâm tạo,

Tâm nhược diệt thời tội diệt vong; 

Tội vong tâm diệt lưỡng câu không, 

Thị tắc danh vi chân sám hối.

Tánh tội vốn là không, vì tôi không thật, không cố định, làm sao kết tội được. Như chúng ta làm tội, trước do ý thức nhiễm. Từ ý thức khởi, thân miệng mới hành, tạo thành nghiệp thành tội. Như vậy động cơ chủ yếu tạo tội là ý thức. Nhưng ý thức khởi tạo tội ở đâu, ở trong, ở ngoài, hay ở chặng giữa, nó thật hay không thật? Tìm lại thì mất, chỉ là một mớ vọng tưởng liên tục tạm gọi là ý thức. Khi biết bản chất vọng tưởng là gốc tạo tội không thật, nghiệp do tội tạo ra cũng không thật thì tướng của tội đâu có thật.

Thí dụ có người xây nhà lầu ba tầng, tầng một không bền chắc thì tầng hai tầng ba sẽ mau hư hoại. Cũng vậy, từ tâm khởi niệm tạo tội, khẩu thân cũng theo đó tạo thành tội thành nghiệp nên kết quả phải chịu quả báo của tội. Tâm là gốc, vốn không thật thì khẩu thân cũng không thật. Nếu đứng trên tướng tội mà luận thì chưa rốt ráo, trên tánh tội thấy nó không thật thì tội đâu còn, mới là rốt ráo.

Trở lại bài sám hối: Tánh tội vốn là không, do tâm tạo, mà tâm không thật, nên khi nhìn lại nó mất tức là tâm diệt. Tâm diệt thì tội theo đó cũng không còn. Như vậy gọi là sám hối về tánh tội.

Kế đây nói về tánh của tâm. Chúng sanh thành cấu thành tịnh là do tâm cấu tịnh, thành người xấu người tốt là do tâm nghĩ xấu nghĩ tốt. Như vậy tốt xấu là gốc từ tâm. Mà tâm vốn không thật có, không ở trong, không ở ngoài, cũng không ở chặng giữa. Tìm đến rốt ráo thì trở về lặng lẽ như như. Tâm đã như, các tội cũng như. Các tội như thì chúng sanh cũng như. Chúng ta tu nếu biết phản quan thì thấy tâm không thật, tội lỗi theo đó dứt. Thấy được như vậy là thấy tột cùng gốc tội lỗi. Trên giả tướng, tội lỗi là tướng hư dối. Vì thân và nghiệp đều là tướng biến dịch, không thật. Thế nên tu là phải tìm tận gốc tánh của tội và tánh của tâm.

Cư sĩ Duy-ma-cật dẫn chứng cho tôn giả Ưu-ba-ly, tâm tướng của ngài do tu hành thanh tịnh được giải thoát. Khi giải thoát nó còn cấu hay không? Tôn giả Ưu-ba-ly đáp không. Cư sĩ Duy-ma-cật kết luận, tất cả chúng sanh tâm tướng không cấu cũng lại như thế. Nếu tâm chúng sanh cố định là cấu thì không thể bỏ cấu được tịnh. Phật tánh đã sẵn có nơi mỗi người, nhưng vì lớp vỏ phiền não cấu uế phủ che bên ngoài nên không thể thấy. Khi nào phá được lớp vỏ đó thì tâm cấu trở thành tịnh. Vì vậy ai tu cũng có thể giác ngộ giải thoát thành Phật được. Vậy trên đường tu chúng ta chỉ cần khéo gạn lọc, phiền não cấu uế nơi tâm sạch rồi, Phật tánh sẽ hiển bày chứ không tìm kiếm đâu xa.

Ví như người cha có của báu để trong hũ chôn dưới đất, dặn bảo con, cha có chôn hũ vàng ở bụi tre sau vườn, khi cha chết con đào lên lấy để xài. Cha qua đời, người con biết rõ chỗ cha chỉ, đào lên lấy được hū vàng. Người đó có ngán đào không? Dù mệt cũng cố đào vì biết sẽ được của báu. Của báu sẵn có trong nhà dại gì không lấy ra xài. Cũng vậy, chúng ta đầy đủ phước duyên, được học Phật pháp nên biết được tâm giác ngộ giải thoát có sẵn nơi mỗi người. Chỉ cần nỗ lực tiến tu, dẹp hết những nhơ cấu trong tâm sẽ nhận được của báu, đừng chần chừ nhút nhát, uổng phí một đời.

Tất cả chúng sanh tâm tướng không cấu, cũng lại như thế. Thưa ngài Ưu-ba-ly, vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh. Điên đảo là cấu, không điên đảo là tịnh. Chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh.

Việc tu của chúng ta là buông bỏ vọng tưởng để tâm được tịnh. Tâm tịnh tức được giải thoát, giác ngộ. Nếu còn vọng tưởng là còn cấu nhơ. Có vọng tưởng mới có điên đảo, trong kinh Bát-nhã gom vọng tưởng và điên đảo chung thành một. Như vậy vọng tưởng điên đảo là cấu, không vọng tưởng điên đảo là tịnh.

Người xuất gia phải giữ giới luật, nếu giữ giới mà chấp ngã nặng thì không thể giải thoát. Thí dụ giới luật Tỳ-kheo không được cuốc đất, không làm tổn hại cỏ cây... Mình giữ luật nghiêm trang, người khác không giữ được thì khinh họ. Vậy là còn chấp ngã, là chưa giải thoát. Dù lăn lộn giữa quần chúng mà không chấp ngã thì vẫn thanh tịnh, còn nếu ngồi trong đạo tràng mà chấp ngã cao cũng là cấu uế. Chủ yếu là đừng chấp ngã. Cội gốc phiền não, ngã mạn, nóng giận, kiêu căng v.v... đều do chấp ngã mà ra. Vì thấy ta là quan trọng nên ai động tới liền nổi sân. Không ngã thì không phiền não, tâm được an tịnh. Như vậy lời giảng của cư sĩ Duy-ma-cật rất chí lý, chỉ thẳng cái thật cho mình biết, không nên chấp tướng.

Trong luật Tỳ-kheo, phần y và bát gần hết một phần ba số giới luật. Người tu ra khỏi trú xứ cách đêm phải mang theo ba y và bình bát. Hiện nay vẫn còn một số vị giữ đúng luật này. Nhưng ở thiền viện hay ngôi già-lam, ra đường không quấn y mang bát đi khất thực, như vậy là có bỏ giới luật không? Theo tinh thần Đại thừa, giữ giới luật không cố chấp trên hình thức khuôn khổ. Có nhiều vị tu thiền tập quán chiếu theo trí Bát-nhã, chính khi tu như vậy là đã giữ giới luật. Giới luật của Phật ngăn cấm những tâm niệm phóng túng buông lung, không cho chạy theo sáu trần ô nhiễm. Bây giờ vọng tưởng dấy lên không theo là đã giữ giới, đây là giữ giới tận gốc rễ, không phải bằng hình tướng bên ngoài. Nếu giữ giới tướng mà còn chấp ngã là chưa đúng tinh thần giữ giới của Phật dạy. Phải biết tất cả các pháp là hư giả không theo, đó là chỗ thiết yếu. Cư sĩ Duy-ma-cật giải thích cho tôn giả Ưu-ba-ly nghe tường tận, cũng là dạy gián tiếp cho chúng ta.

Tất cả pháp sanh diệt không trụ không dừng, như huyễn như điện, các pháp không đối đãi cho đến một niệm cũng không dừng. Các pháp đều là vọng kiến, như mộng, như sóng nắng, như trăng trong nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh. Người biết được như thế mới gọi là giữ giới luật. Người biết được như thế, ấγ mới gọi là khéo hiểu.

Hằng thấy các pháp như huyễn như hóa, như trăng trong nước, như bóng trong gương và biết tất cả đều do vọng tưởng sanh, người đó đã giữ giới luật. Sở dĩ Phật cấm không cho tham nhiễm ngũ dục vì ngũ dục tạo nên tội lỗi. Thấy ngũ dục huyễn hóa thì còn gì tham nhiễm. Thấy đúng như vậy là đã giữ giới, biết được như vậy gọi là người khéo hiểu.

Tóm lại, đoạn trước ông chỉ cho chúng ta thấy tánh tội không thật, từ tâm mà ra. Tâm không thật, tội cũng không thật nên trở về như.

Đoạn giữa, chỉ tâm cấu, ngã cấu và chúng sanh cũng cấu, tâm tịnh thì chúng sanh tịnh. Vọng tưởng là nhơ, hết vọng tưởng là sạch v.v... Như vậy, tất cả tội gốc từ tâm ra. Tâm thanh tịnh, muôn tội theo đó đều hết.

Đoạn sau, thấy biết tất cả pháp như huyễn hóa thì không còn dính mắc, là người chân chánh giữ giới luật.

Khi ấy, hai thầy Tỳ-kheo liền dứt hết nghi và phát tâm vô thượng Bồ-đề.

LA-HẦU-LA

Chánh văn:

Phật bảo ngài La-hầu-la:

- Ông đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài La-hầu-la bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa ở thành Tỳ-da-ly, các con ông trưởng giả đến chỗ của con, cúi đầu làm lễ, hỏi con rằng: “Thưa ngài La-hầu-la, ngài là con của Phật, đã bỏ ngôi Chuyển luân thánh vương đi xuất gia hành đạo. Xuất gia đó có những lợi ích gì?” Con liền đúng như pháp vì họ nói lợi ích của công đức xuất gia. Khi ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con rằng: “Thưa ngài La-hầu-la, không nên nói cái lợi của công đức xuất gia. Vì cớ sao? Không lợi, không công đức, ấy là xuất gia. Pháp hữu vi thì có thể nói có lợi, có công đức. Phàm xuất gia là pháp vô vi, mà trong pháp vô vi thì không lợi, không công đức. La-hầu-la, xuất gia đó không kia không đây, cũng không khoảng giữa. Lìa sáu mươi hai kiến chấp, ở nơi Niết-bàn. Người trí thọ nhận là chỗ sở hành của hàng thánh giả. Hàng phục chúng ma, qua được năm đạo, trong sạch ngũ nhãn, được ngũ lực, lập ngũ căn. Không não hại người khác, lìa các tạp ác. Dẹp phá các ngoại đạo, vượt khỏi các giả danh. Ra khỏi bùn lầy, không bị trói buộc. Không ngã sở, không sở thọ. Không bị nhiễu loạn, trong tâm vui vẻ. Bảo hộ ý kia, tùy thuận thiền định, lìa các lỗi ác. Nếu hay như thế, ấy là chân xuất gia."

Khi đó ông Duy-ma-cật bảo các con trưởng giả: “Các ông ở trong chánh pháp nên cùng nhau xuất gia. Vì cớ sao? Vì Phật ra đời rất khó được gặp.”

Các con trưởng giả thưa: “Thưa cư sĩ, chúng tôi nghe Phật nói cha mẹ không cho thì không được xuất gia."

Ông Duy-ma-cật nói: “Đúng vậy! Ngay khi các ông phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đó chính là xuất gia, đó chính là thọ giới Cụ túc."

Khi ấy ba mươi hai người con ông trưởng giả đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Tôn giả La-hầu-la nói về lợi ích của công đức xuất gia là trên hình thức. Trong kinh Phật cũng nói về việc này nhưng trên phương diện đối đãi của tướng hữu vi, chứ không nói đến nghĩa vô vi. Còn cư sĩ Duy-ma-cật nói thẳng đến chỗ vô vi không tướng. Không tướng thì nói gì có lợi, có công đức! Ở đây giống ý tổ Đạt-ma trả lời câu hỏi của vua Lương Võ Đế, ông cất chùa và nuôi tăng chúng v.v... rất nhiều, vậy có lợi ích, có công đức gì không? Tổ đáp, hoàn toàn không công đức. Nói công đức, phước đức chỉ là tướng sanh diệt, còn chỗ chân thật ra ngoài tướng đối đãi, nên nói là không.

Như vậy cái nhìn của cư sĩ Duy-ma-cật gần với nhà thiền. Quan niệm của đa số người xuất gia cho rằng không lợi, không công đức thì tu làm gì. Nhưng đến chỗ vô vi giải thoát không còn nằm trên giả tướng thì đâu còn thấy có lợi, có công đức.

Pháp hữu vi thì có thể nói có lợi, có công đức. Phàm xuất gia là pháp vô vi, mà trong pháp vô vì thì không lợi, không công đức. Câu này cư sĩ Duy-ma-cật xác nhận, không lợi không công đức là đứng trên pháp vô vi. Như nói người xuất gia không bận việc gia đình, khỏi lo con cái, nên rảnh rang tu hành, đó là lợi về hình thức. Chủ yếu người xuất gia đâu chỉ muốn được phước tương đối, mà mục đích cứu cánh là mong cầu giải thoát, tức là đi tới chỗ vô vi.

La-hầu-la, xuất gia đó không kia không đây, cũng không khoảng giữa. Lìa sáu mươi hai kiến chấp, ở nơi Niết-bàn. Người trí thọ nhận là chỗ sở hành của hàng thánh giả. Hàng phục chúng ma, qua được năm đạo, trong sạch ngũ nhãn, được ngũ lực, lập ngũ căn. Không não hại người khác, lìa các tạp ác. Dẹp phá các ngoại đạo, vượt khỏi các giả danh. Ra khỏi bùn lầy, không bị trói buộc. Không ngã sở, không sở thọ. Không bị nhiễu loạn, trong tâm vui vẻ. Bảo hộ ý kia, tùy thuận thiền định, lìa các lỗi ác. Nếu hay như thế, ấy là chân xuất gia.

Như vậy người xuất gia là người thoát khỏi ngã nhân chúng sanh, là chỗ thọ nhận của người trí, chỗ sở hành của bậc thánh, hàng phục chúng ma, qua được năm đạo. Nếu nói chỉ từ bỏ nhà thế tục, nhà cha mẹ vào chùa là xuất gia, hiểu như thế thì đời tu chưa có giá trị. Theo cư sĩ Duy-ma-cật, xuất gia không phải chỉ ra khỏi nhà thế tục mà phải ra khỏi nhà phiền não và nhà tam giới. Phải rời ngã ngã sở, hằng ở nơi Niết-bàn, hằng vượt ra khỏi mọi trói buộc nhiễm ô và hằng ở trong thiền định. Đó mới là mục đích cứu cánh của người chân chánh xuất gia. Như vậy ông đã làm sáng tỏ thêm ý nghĩa xuất gia chứ không phải nói lý suông.

Khi đó ông Duy-ma-cật bảo các con trưởng giả: “Các ông ở trong chánh pháp nên cùng nhau xuất gia. Vì cớ sao? Vì Phật ra đời rất khó được gặp.” Cư sĩ Duy-ma-cật khuyên các con trưởng giả nên ở trong chánh pháp phát tâm xuất gia, vì được gặp Phật ra đời là rất khó.

Các con trưởng giả thưa: “Thưa cư sĩ, chúng tôi nghe Phật nói cha mẹ không cho thì không được xuất gia.”

Ông Duy-ma-cật nói: “Đúng vậy! Ngay khi các ông phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đó chính là xuất gia, đó chính là thọ giới Cụ túc.”

Theo luật Phật chế, muốn xuất gia thì phải được sự chấp thuận của cha mẹ, phải vào chùa cạo bỏ râu tóc. Ở đây cư sĩ Duy-ma-cật không nặng về hình thức, mà cho rằng ngay khi phát tâm cầu thành Phật, đó là xuất gia, là thọ giới Cụ túc. Thế nên người xuất gia phải luôn nhớ và nhắm thẳng mục đích cứu cánh là cầu thành Phật để tiến tu.

Khi ấy ba mươi hai người con ông trưởng giả đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Tóm lại, ở đây cư sĩ Duy-ma-cật muốn nói nghĩa xuất gia là pháp vô vi, là đi thẳng vào giải thoát, nên khuyên tôn giả La-hầu-la đừng lấy lợi của pháp hữu vi mà nói với các con ông trưởng giả. Đoạn kế muốn giản trạch, người xuất gia là phá được tất cả phiền não, ra khỏi nhà tam giới, ở nơi Niết-bàn. Đó là ý nghĩa xuất gia chân thật.

A-NAN

Chánh văn:

Phật bảo ngài A-nan:

- Ông đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài A-nan bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa, Thế Tôn thân có chút bệnh phải dùng sữa bò, con liền mang bát đến đứng trước cửa nhà đại Bà-la-môn. Khi ấy ông Duy-ma-cật đến hỏi con: “Thưa ngài A-nan, vì sao sáng sớm mang bát đến đứng đây?”

Con đáp: “Này cư sĩ, thân Thế Tôn có chút bệnh phải dùng sữa bò, nên tôi đến đứng đây.”

Ông Duy-ma-cật nói: “Thôi, thôi! A-nan chớ có nói lời ấy. Thân Như Lai là thể kim cang, các ác đã dứt, các thiện đã đầy đủ, sao phải có bệnh, sao phải có não? Lặng lẽ mà đi, A-nan. Chớ phỉ báng Như Lai, chớ cho những người khác nghe lời thô này. Không nên để chư thiên đầy đủ oai đức và những vị Bồ-tát đến từ các cõi tịnh độ khác nghe được lời nói này. A-nan, vị Chuyển luân thánh vương chỉ có chút ít phước còn được không bệnh, huống chi Như Lai đầy đủ vô lượng phước đức thù thắng đó ư! Hãy đi A-nan! Chớ khiến chúng tôi phải chịu sự hổ thẹn. Ngoại đạo, Phạm chí nếu nghe được lời này thì sẽ khởi nghĩ rằng: “Sao gọi là thấy? Tự mình không thể cứu bệnh mà có thể cứu bệnh cho người khác?" Ngài nên lén đi mau, chớ để cho người nghe. A-nan nên biết, thân Như Lai tức là pháp thân không phải thân tư dục. Phật là bậc Thế Tôn vượt qua cả tam giới. Thân Phật vô lậu, các lậu đã dứt. Thân Phật vô vi, không rơi vào các số. Thân như thế sao còn có bệnh? Sao còn có não?"

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con thật là hổ thẹn, chẳng lẽ con gần Phật mà nghe lầm ư?

Liền khi ấy ở trong không trung có tiếng: "Này A-nan, đúng như cư sĩ nói. Chỉ vì Phật ra đời nơi ngũ trược ác thế nên thị hiện pháp này để độ thoát chúng sanh. Hãy đi A-nan, nhận lấy sữa chớ hổ thẹn."

Bạch Thế Tôn! Ông Duy-ma-cật trí tuệ biện tài như thế. Nên con không dám đến thăm bệnh ông.

Như thế năm trăm vị đại đệ tử mỗi vị hướng về Phật nói về bản duyên kia, thuật lại những lời ông Duy-ma-cật, đều nói: “Con không kham đến thăm bệnh ông ấy!"

Giảng:

Đức Thế Tôn có chút bệnh, tôn giả A-nan mang bát đến trước cửa nhà một vị đại Bà-la-môn để xin sữa. Khi ấy cư sĩ Duy-ma-cật đến hỏi tôn giả A-nan, vì sao sáng sớm mang bát đứng đây làm gì? A-nan nói, vì thân Thế Tôn có chút bệnh nên tôi đến đây để xin sữa, Cư sĩ Duy-ma-cật nói: Thân Như Lai là thể kim cang, các ác đã dứt, các thiện đã đầy đủ, sao lại nói có bệnh có não? Tôn giả A-nan hãy lặng lẽ đi mau. Nói như vậy là phỉ báng Như Lai, đừng để ngoại đạo, chư thiên và chư Bồ-tát đến từ các cõi tịnh độ khác nghe lời nói này, thật là xấu hổ.

A-nan, vị Chuyển luân thánh vương chỉ có chút ít phước còn được không bệnh, huống chi Như Lai đầy đủ vô lượng phước đức thù thắng đó ư! Hãy đi A-nan! Chớ khiến chúng tôi phải chịu sự hổ thẹn. Ngoại đạo, Phạm chí nếu nghe được lời này thì sẽ khởi nghĩ rằng: Sao gọi là thầy? Tự mình không thể cứu bệnh mà có thể cứu bệnh cho người khác? Vì sao tôn giả A-nan nói thân Như Lai bệnh mà cư sĩ Duy-ma-cật cho là hổ thẹn? Vì ông sợ ngoại đạo, Phạm chí nghe nói lời này sẽ đặt câu hỏi: Đã là một vị thầy, có bệnh không tự cứu, làm sao có thể cứu bệnh cho người khác được?

Bệnh có thân bệnh và tâm bệnh. Về thân, tôi thường dạy các Phật tử siêng năng ngồi thiền, thân sẽ ít bệnh. Nói về tâm, tu là để diệt phiền não hết khổ đau, chứ đâu có ai nói tu là nuôi phiền não. Mình chưa diệt phiền não làm sao dạy người diệt phiền não được. Người xuất gia dù chỉ mới tu năm tháng mười tháng, ít ra phải bớt phiền não, gương mặt luôn vui tươi. Như vậy mới tạo niềm tin cho người phát tâm đến với đạo.

Có Phật tử nói: “Hôm trước, Thầy con giận mấy chú điệu, muốn bỏ chùa đi. Tụi con phải năn nỉ, xin Thầy ở lại.” Thầy dọa bỏ đi không phải là vì phiền não. Tâm nguyện vị thầy luôn muốn đệ tử trở thành người hữu dụng trong Phật pháp, nên phải răn dạy, rầy la mỗi khi họ làm những điều sai quấy. Nếu không họ cứ tưởng làm như vậy là hay là đúng. Rầy la như thế là vì lòng từ bi.

Người tu phải vượt qua những khó khăn buổi đầu, như ngồi thiền phải chịu đau chân, lúc bệnh không rên không than. Phải tập có sức chịu đựng, thắng được những cơn bệnh nhỏ, chứ đừng yếu đuối. Gốc của việc tu là giải thoát, mà không chịu nắm giữ, cứ vịn những cành lá phiền não rồi nhọc nhằn với nó. Phải gan dạ, dứt khoát buông bỏ mới có thể tiến được. Trước kia tôi bệnh phổi, bác sĩ đang điều trị, bệnh chưa dứt hẳn, nhưng nhờ tôi ngồi thiền nhiều nên hết bệnh lúc nào không hay. Người tu thiền, khi bị cảm ho chỉ cần dụng công ngồi thiền đúng phương pháp, bệnh sẽ tự khỏi.

Ngài nên lén đi mau, chớ để cho người nghe. A-nan nên biết, thân Như Lai tức là pháp thân không phải thân tư dục. Phật là bậc Thế Tôn vượt qua cả tam giới. Thân Phật vô lậu, các lậu đã dứt. Thân Phật vô vi, không rơi vào các số. Thân như thế sao còn có bệnh? Sao còn có não?

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con thật là hổ thẹn. Chẳng lẽ con gần Phật mà nghe lầm ư?

Ở đây cứ sĩ Duy-ma-cật bảo tôn giả A-nan phải lén đi cho nhanh, chớ để cho người khác nghe. Vì thân Phật là pháp thân, là thân đã vượt ra khỏi tam giới, không còn lậu hoặc nên không còn bệnh không còn não

Lúc đó tôn giả A-nan quá hổ thẹn, cứ bị đuổi đi hoài nên cảm thấy tủi thân. Thầm nghĩ, Phật bệnh mình đi xin sữa cho Phật mà bị ông ấy đuổi như vậy, chẳng lẽ gần bên Phật mà mình nghe lầm chăng?

Liền khi ấy ở trong không trung có tiếng: "Nay A-nan, đúng như cư sĩ nói. Chỉ vì Phật ra đời nơi ngũ trược ác thế nên thị hiện pháp này để độ thoát chúng sanh. Hãy đi A-nan, nhận lấy sữa chớ hổ thẹn.”

Tôn giả A-nan đang suy nghĩ, bỗng trên không trung có tiếng nói xác nhận thêm lời cư sĩ Duy-ma-cật là đúng. Pháp thân Như Lai đâu có bệnh, nhưng vì phương tiện Phật thị hiện sanh trong đời ác ngũ trược, nên cũng có sanh già bệnh chết như chúng sanh để giáo hóa cứu độ họ. Đó là ứng thân của Như Lai. Thế nên tôn giả A-nan phải đi xin sữa cho đức Thế Tôn, đâu có gì phải hổ thẹn.

Bạch Thế Tôn! Ông Duy-ma-cật trí tuệ biện tài như thế. Nên con không dám đến thăm bệnh ông.

Như thế, năm trăm vị đại đệ tử mỗi vị hướng về Phật nói về bản duyên kia, thuật lại những lời ông Duy-ma-cật, đều nói: “Con không kham đến thăm bệnh ông ấy!"

Trong kinh sử của Phật giáo Nguyên thủy nói rất rõ, hàng Nhị thừa quan niệm thân Phật là thân hiện hữu ở thế gian, có ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, đó là báo thân hay ứng thân. Còn trong giáo lý Đại thừa thấy thân Phật là pháp thân, là thể kim cương bất sanh bất diệt. Kim cương là chất cứng rắn nhất, không gì hoại được, nên trong kinh dùng thể kim cương dụ cho pháp thân. Pháp thân không có tướng, chứ không phải thân hiện hữu khi Phật còn ở Ấn Độ. Pháp thân không tướng làm sao có bệnh mà nói đi xin sữa.

Qua đó chúng ta thấy mỗi bên có cái nhìn khác nhau, một bên nhìn về báo thân hay ứng thân, còn một bên nhìn về pháp thân. Ứng thân hay báo thân là tướng sanh diệt. Nếu tu chỉ được phước tướng, qua mấy mươi năm rồi cũng phải hoại. Mục đích cứu cánh của người tu là phải đạt được pháp thân bất sanh bất diệt. Tuy nhiên, nhờ thân sanh diệt này để tu mới đạt được pháp thân, cho nên từ tướng sanh diệt để tiến tới chỗ vô sanh, mới đúng ý nghĩa cứu cánh chân thật.

Tóm lại, ngoài mười vị đệ tử lớn kể trên còn năm trăm vị đại đệ tử nữa, mỗi vị đều hướng về Phật nói nhân duyên trước kia để khen ngợi cư sĩ Duy-ma-cật, đều nói không kham đến thăm bệnh ông ấy. Chúng ta thấy tinh thần nêu lên ở đây, dù là cư sĩ nhưng đạt đến chỗ cứu cánh thì người xuất gia vẫn khen ngợi tán thán. Muốn đến chỗ cứu cánh bình đẳng chân thật thì phải thấy thẳng pháp tánh, nhận ra pháp thân.

Thanh văn và Bồ-tát khác nhau, nhưng hỗ tương nhau để triển khai từ tướng thẳng vào tánh, chứ không phải các ngài chống đối nhau. Hàng Thanh văn thì nương trên tướng, còn Bồ-tát đi thẳng vào tánh. Muốn tu thì từ thân này mà tu, mới thấy được pháp thân. Pháp thân là thể, ứng thân hay hóa thân là dụng.

IV- PHẨM BỒ-TÁT

BỒ-TÁT DI-LẶC

Chánh văn:

Khi ấy Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

- Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Di-lặc bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Nhớ thuở xưa con vì Thiên vương ở cung trời Đâu-suất và quyến thuộc của người, nói về hạnh bất thối chuyển. Lúc ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con: “Ngài Di-lặc! Đức Thế Tôn thọ ký cho nhân giả, một đời sẽ được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy đời nào ngài được thọ ký? Đời quá khứ chăng? Đời vị lai chăng? Đời hiện tại chăng? Nếu đời quá khứ, thì quá khứ đã qua. Nếu đời vị lai, thì vị lai chưa đến. Nếu đời hiện tại, thì hiện tại không dừng. Như lời Phật nói: “Này các Tỳ-kheo! Chính ông hiện nay, cũng sanh già chết.” Nếu do vô sanh được thọ ký thì vô sanh đó là chánh vị, ở trong chánh vị cũng không thọ ký, cũng không được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì sao ngài Di-lặc một đời được thọ ký? Là từ Như sanh được thọ ký hay từ Như diệt được thọ ký? Nếu do Như sanh được thọ ký, mà Như không có sanh. Nếu do Như diệt được thọ ký, mà Như không có diệt. Tất cả chúng sanh đều Như, tất cả pháp cũng Như, các vị thánh hiền cũng Như, cho đến Bồ-tát Di-lặc cũng Như. Nếu ngài Di-lặc được thọ ký thì tất cả chúng sanh cũng phải được thọ ký.

Vì cớ sao? Phàm Như thì không hai không khác, nếu Di-lặc được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì tất cả chúng sanh đều cũng phải được. Vì cớ sao? Tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ-đề. Nếu Di-lặc được diệt độ thì tất cả chúng sanh cũng phải diệt độ. Vì cớ sao? Vì chư Phật biết tất cả chúng sanh cứu cánh tịch diệt chẳng còn diệt nữa.

Thế nên, ngài Di-lặc chớ dùng pháp này mà dạy bảo các thiên tử, thật không có phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có thối chuyển. Này Di-lặc, phải khiến cho những vị thiên tử này bỏ kiến chấp phân biệt về Bồ-đề. Vì cớ sao? Vì Bồ-đề không thể do thân mà được, cũng không do tâm mà được. Tịch diệt là Bồ-đề, vì diệt các tướng. Chẳng quán là Bồ-đề, vì lìa các duyên. Chẳng hành là Bồ-đề, vì không có ức niệm. Đoạn là Bồ-đề, vì xả các kiến chấp. Lìa là Bồ-đề, vì lìa các vọng tưởng. Chướng là Bồ-đề, vì chướng các nguyện. Chẳng nhập là Bồ-đề, vì không tham trước. Thuận là Bồ-đề, vì thuận nơi Như. Trụ là Bồ-đề, vì trụ pháp tánh. Đến là Bồ-đề, vì đến được thật tế. Bất nhị là Bồ-đề, vì lìa ý pháp. Bình đẳng là Bồ-đề, vì bình đẳng như hư không. Vô vi là Bồ-đề, vì không sanh trụ diệt. Tri là Bồ-đề, vì rõ biết tâm hành chúng sanh. Chẳng hội là Bồ-đề, vì các nhập không hội. Chẳng hiệp là Bồ-đề, vì lìa phiền não tập. Vô xứ là Bồ-đề, vì không có hình sắc. Giả danh là Bồ-đề, vì danh tự là không. Như hóa là Bồ-đề, vì không thủ xả. Không loạn là Bồ-đề, vì thường tự tĩnh. Thiện tịch là Bồ-đề, vì tánh thanh tịnh. Không thủ là Bồ-đề, vì lìa các phan duyên. Không khác là Bồ-đề, vì các pháp bình đẳng. Không so sánh là Bồ-đề, vì không thể thí dụ được. Vi diệu là Bồ-đề, vì các pháp khó biết.”

Bạch Thế Tôn! Khi ông Duy-ma-cật nói pháp này, hai trăm thiên tử được pháp Vô sanh nhẫn. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Phẩm trên nói về hàng Thanh văn đệ tử hiện hữu của Phật, phẩm này nói về các vị Bồ-tát, một số vị có mặt trong hội, một số từ phương khác đến.

Trước tiên Phật cử Bồ-tát Di-lặc đến thăm bệnh cư sĩ Duy-ma-cật nhưng ngài từ chối. Ngài kể lại nhân duyên thuở xưa, khi đang thuyết về hạnh bất thối chuyển cho thiên vương và quyến thuộc ở trời Đâu-suất, lúc ấy cư sĩ Duy-ma-cật đi đến nói với ngài, đức Thế Tôn thọ ký cho ngài một đời sẽ thành Phật, vậy đời nào được thọ ký, là quá khứ, vị lai hay hiện tại?

Nếu đời quá khứ thì quá khứ đã qua. Nếu đời vị lai thì vị lai chưa đến. Nếu đời hiện tại thì hiện tại không dừng. Như lời Phật nói: Này các Tỳ-kheo, chính ông hiện nay cũng sanh già chết.

Cư sĩ Duy-ma-cật gạn hỏi, Phật nói Bồ-tát Di-lặc một đời nữa được thành Phật là đời nào? Đời quá khứ thì đã qua, đời vị lai chưa đến, đời hiện tại không dừng. Ngay con người hiện tại cũng có sanh già chết. Nghĩa là ngay trong khoảnh khắc có cả ba tướng sanh già chết, nên đâu thể nói hiện tại được. Vậy đời nào gọi là được Phật thọ ký?

Nếu nói ngay thân hiện tại có sanh già chết thì ít ai thấy biết, nhưng xét từng tế bào trong cơ thể luôn luôn chuyển đổi, có những tế bào mới sanh, những tế bào đã già, cũng có những tế bào bị hoại. Như vậy thân này thay đổi liên tục không dừng, làm sao có thể nói cố định thời gian được.

Nếu do vô sanh được thọ ký thì vô sanh đó là chánh vị, ở trong chánh vị cũng không thọ ký, cũng không được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì sao ngài Di-lặc một đời được thọ ký? Chánh vị nghĩa là ngôi vị chân chánh hay chân thật, còn gọi là chân như. Chân như là thể không sanh không diệt, nên không thọ ký cũng không thành Phật. Nếu còn sanh tức là còn trong quá khứ, hiện tại, vị lai, mà cả ba thời đều không thật. Như vậy nói được thọ ký là ở trong sanh hay trong vô sanh? Sanh cũng không thể được, vô sanh thì còn gì thọ ký, còn gì thành Phật, cả hai đều không thể được. Vậy tại sao Bồ-tát Di-lặc được thọ ký một đời sẽ thành Phật?

Là từ Như sanh được thọ ký hay từ Như diệt được thọ ký? Cư sĩ Duy-ma-cật chỉ thẳng thể tánh chân như không sanh không diệt, mà đã không sanh không diệt thì lấy gì để thọ ký. Nếu Như sanh thọ ký không được thì Như diệt cũng không được thọ ký. Tại sao?

Nếu do Như sanh được thọ ký, mà Như không có sanh. Nếu do Như diệt được thọ ký, mà Như không có diệt. Tất cả chúng sanh đều Như, tất cả pháp cũng Như, các vị thánh hiền cũng Như, cho đến Bồ-tát Di-lặc cũng Như. Nếu ngài Di-lặc được thọ ký thì tất cả chúng sanh cũng phải được thọ ký.

Nói về bản thể của chân như thì tất cả chúng sanh đều Như. Tất cả pháp đều Như. Nếu từ chân như được thọ ký thì tất cả chúng sanh Như, hiền thánh Như, Di-lặc Như. Vậy Bồ-tát Di-lặc được thọ ký thì tất cả chúng sanh đều được thọ ký.

Vì cớ sao? Phàm Như thì không hai không khác, nếu Di-lặc được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì tất cả chúng sanh đều cũng phải được. Vì cớ sao? Tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ-đề. Nếu Di-lặc được diệt độ thì tất cả chúng sanh cũng phải diệt độ. Vì cớ sao? Vì chư Phật biết tất cả chúng sanh cứu cánh tịch diệt chẳng còn diệt nữa.

Chân như thì không hai không khác, Bồ-tát Di-lặc được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì tất cả chúng sanh đều cũng phải được. Bồ-tát Di-lặc có tướng Bồ-đề thì tất cả chúng sanh cũng có tướng Bồ-đề. Niết-bàn là tịch diệt, tất cả chúng sanh đều có tướng Niết-bàn, tức là tướng tịch diệt. Như vậy chẳng lẽ lại có tịch diệt lần thứ hai.

Thế nên, ngài Di-lặc chớ dùng pháp này mà dạy bảo các thiên tử, thật không có phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có thối chuyển. Này Di-lặc, phải khiến cho những vị thiên tử này bỏ kiến chấp phân biệt về Bồ-đề. Vì cớ sao? Vì Bồ-đề không thể do thân mà được, cũng không do tâm mà được.

Cư sĩ Duy-ma-cật bảo Bồ-tát Di-lặc chớ giảng dạy về hạnh bất thối chuyển cho chư thiên và thiên tử nghe. Vì sao? Vì thể chân như không tiến không lui, không sanh không diệt, không còn đối đãi, thì làm sao có phát tâm Bồ-đề, làm sao có thối chuyển Bồ-đề, mà ngài dạy về hạnh bất thối chuyển. Phân biệt Bồ-đề là phân biệt có thối chuyển và không thối chuyển. Dạy hạnh bất thối chuyển vì có thối chuyển, mà thể Bồ-đề thì đâu có thối chuyển, cũng không có bất thối chuyển. Nên cư sĩ Duy-ma-cật nói, chớ dùng kiến chấp này mà dạy các vị thiên tử, vì Bồ-đề không phải do thân được, không phải do tâm được.

Tịch diệt là Bồ-đề vì diệt các tướng. Chẳng quán là Bồ-đề vì lìa các duyên. Chẳng hành là Bồ-đề vì không có ức niệm. Đoạn là Bồ-đề vì xả các kiến chấp. Lìa là Bồ-đề vì lìa các vọng tưởng. Chướng là Bồ-đề vì chướng các nguyện. Chẳng nhập là Bồ-đề vì không tham trước. Thuận là Bồ-đề vì thuận nơi Như. Trụ là Bồ-đề vì trụ pháp tánh. Đến là Bồ-đề vì đến được thực tế. Bất nhị là Bồ-đề vì lìa ý pháp. Bình đẳng là Bồ-đề vì bình đẳng như hư không. Vô vi là Bồ-đề vì không sanh, trụ và diệt. Tri là Bồ-đề vì rõ biết tâm hành chúng sanh. Chẳng hội là Bồ-đề vì các nhập không hội. Chẳng hiệp là Bồ-đề vì lìa phiền não tập. Vô xứ là Bồ-đề vì không có hình sắc. Giả danh là Bồ-đề vì danh tự là không. Như hóa là Bồ-đề vì không thủ xả. Không loạn là Bồ-đề vì thường tự tĩnh. Thiện tịch là Bồ-đề vì tánh thanh tịnh. Không thủ là Bồ-đề vì lìa các phan duyên. Không khác là Bồ-đề vì các pháp bình đẳng. Không so sánh là Bồ-đề vì không thể thí dụ được. Vi diệu là Bồ-đề vì các pháp khó biết.

Thường khi chúng ta quán là phân tích các duyên. Ở đây đã lìa các duyên rồi, còn gì phân tích nữa, cho nên nói chẳng quán là Bồ-đề vì lìa các tướng. Hành tức là tâm hành, khi tâm hành dứt thì không còn nghĩ tưởng, ấy là Bồ-đề. Đoạn là Bồ-đề vì xả các kiến chấp. Buông vọng tưởng không theo là lìa, ngay khi lìa vọng tưởng đó là Bồ-đề.

Thường thường nói không có chướng mới là Bồ-đề, tại sao ở đây nói chướng là Bồ-đề, vì chướng các nguyện? Chướng là ngăn trở, nguyện là mong muốn. Nhưng đến chỗ chân thật tịch diệt rồi thì không còn gì mong muốn, nên nói chướng các nguyện.

Chẳng nhập là Bồ-đề vì không tham trước. Nhập là sáu nhập, vì sáu căn còn tham trước còn dính mắc với sáu trần nên mới sanh ra sáu nhập. Khi căn không tham trước không dính mắc với trần thì không có nhập, ấy chính là Bồ-đề.

Tùy thuận là Bồ-đề, vì thuận chân như. Trụ là Bồ-đề vì an trụ nơi pháp tánh. Bồ-đề là chỗ thực tế không còn tướng đối đãi sanh diệt, nên nói đến là Bồ-đề vì đến được thực tế.

Bất nhị là Bồ-đề vì lìa ý pháp. Tất cả những ý niệm chúng ta dấy lên đều chạy theo pháp trần, pháp trần là đối đãi, là hai. Đến chỗ bất nhị thì ý thức và pháp trần lìa nhau, ý thức không còn duyên theo pháp trần, đó là Bồ-đề.

Bình đẳng là Bồ-đề vì bình đẳng như hư không. Vô vi là Bồ-đề vì không sanh, trụ và diệt. Pháp còn nằm trong sanh trụ diệt thì gọi đó là hữu vi, Bồ-đề thì không còn sanh trụ diệt nên gọi là vô vi. Tri là Bồ-đề vì rõ biết tâm hành của chúng sanh. Bồ-đề là giác ngộ, nghĩa là khi đã giác ngộ thì biết rõ tâm niệm dấy khởi của chúng sanh.

Chẳng hội là Bồ-đề vì các nhập không hội. Hội là nhóm họp. Nếu các nhập nhóm họp thì có thân, còn sanh tử. Khi các nhập không chung họp lại thì gọi là Bồ-đề, tức là giải thoát sanh tử. Chẳng hiệp là Bồ-đề vì lìa phiền não tập. Phiền não nhóm họp là tập đế, khi không còn nhóm họp phiền não nữa, ấy là Bồ-đề.

Vô xứ là Bồ-đề vì không có hình sắc. Chân tâm không hình sắc, không hình sắc thì đâu có chỗ nơi. Khi có người hỏi: “Chân tâm ở chỗ nào? Ở trong ở ngoài hay chặng giữa?” Nếu nói có chỗ, là có nơi chốn, có hình sắc đều không đúng.

Giả danh là Bồ-đề vì danh tự là không. Tất cả ngôn ngữ, văn tự... đều không thật. Người nhận hiểu được như thế là hằng sống với tánh Bồ-đề.

Như hóa là Bồ-đề vì không thủ xả. Ưa thì thủ, ghét thì xả. Nếu thấy các pháp như huyễn như hóa thì lúc đó không còn nhiễm trước, không có thủ xả.

Không loạn là Bồ-đề vì thường tự tĩnh, tĩnh tức là lặng lẽ. Thiện tịch là Bồ-đề vì tánh thanh tịnh, thiện là khéo, tịch là lặng lẽ, tức là khéo lặng lẽ, đó là Bồ-đề vì tánh thường trong sạch.

Không thủ là Bồ-đề vì không chạy theo duyên. Không khác là Bồ-đề vì các pháp bình đẳng. Không so sánh là Bồ-đề vì không thể lấy gì để thí dụ được. Vi diệu là Bồ-đề vì các pháp khó biết. Thể tánh của Bồ-đề mầu nhiệm, không thể suy lường được cho nên nói các pháp khó biết.

Bạch Thế Tôn! Khi ông Duy-ma-cật nói pháp này, hai trăm thiên tử được pháp Vô sanh nhẫn. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Tóm lại, đoạn này cư sĩ Duy-ma-cật giải thích thêm về nghĩa nhất sanh bổ xứ của đức Phật thọ ký cho Bồ-tát Di-lặc. Đức Thế Tôn thọ ký cho Bồ-tát Di-lặc một đời nữa sẽ thành Phật. Cư sĩ Duy-ma-cật mới gạn lại, một đời là đời nào? Vì ông nhìn trên thể tánh chân như nên thấy ba thời không thật. Ba thời không thật thì làm sao nói có một đời được thọ ký, căn cứ trên cái gì để thọ ký? Nếu căn cứ trên chân như thì chân như là thể tánh không sanh không diệt. Không sanh diệt thì làm sao có thọ ký, có thành Phật! Bồ-tát Di-lặc nhìn trên tướng sanh diệt của kiếp người, mà tướng chỉ là giả danh, tạm nói tạm dùng, không thật, nên mới thấy có thọ ký một đời, hai đời...

Qua đó chúng ta thấy, trên lý tánh Bồ-tát Di-lặc cũng như chúng sanh đều sẵn có chân như Phật tánh, nên Bồ-tát Di-lặc thành Phật thì tất cả chúng sanh cũng sẽ thành Phật. Khi dứt hết tất cả phiền não tập khí sanh tử thì tánh giác hiện tiền, ngay đó là Niết-bàn, chứ không còn nói thọ ký thành Phật.

ĐỒNG TỬ QUANG NGHIÊM

Chánh văn:

Phật bảo Đồng tử Quang Nghiêm:

- Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Quang Nghiêm liền bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Nhớ thuở xưa, khi con ra khỏi đại thành Tỳ-da-ly, lúc đó ông Duy-ma-cật mới vào thành. Con liền chào và hỏi: “Cư sĩ từ đâu đến đây?” Ông trả lời: “Tôi từ đạo tràng đến.” Con hỏi: “Đạo tràng là chỗ nào?” Ông đáp: “Trực tâm là đạo tràng, vì không hư giả. Phát hạnh là đạo tràng, vì hay biện sự. Thâm tâm là đạo tràng, vì tăng ích các công đức. Bồ-đề tâm là đạo tràng, vì không lầm lẫn. Bố thí là đạo tràng, vì không mong quả báo. Trì giới là đạo tràng, vì nguyện được đầy đủ. Nhẫn nhục là đạo tràng, vì đối với chúng sanh không tâm chướng ngại. Tinh tấn là đạo tràng vì không biếng nhác lui sụt. Thiền định là đạo tràng, vì tâm điều nhu. Trí tuệ là đạo tràng, vì hiện thấy các pháp. Từ là đạo tràng, vì bình đẳng đối với chúng sanh. Bi là đạo tràng, vì nhẫn chịu những sự đau khổ. Hỷ là đạo tràng, vì ưa thích pháp. Xả là đạo tràng, vì dứt bỏ yêu ghét. Thần thông là đạo tràng, vì thành tựu lục thông. Giải thoát là đạo tràng, vì hay bội xả. Phương tiện là đạo tràng, vì giáo hóa chúng sanh. Tứ nhiếp pháp là đạo tràng, vì nhiếp phục chúng sanh. Đa văn là đạo tràng, vì như nghe mà thực hành. Phục tâm là đạo tràng, vì chánh quán các pháp. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đạo tràng, vì bỏ các pháp hữu vi. Tứ đế là đạo tràng, vì không dối thế gian. Duyên khởi là đạo tràng, vì vô minh cho đến lão tử đều không cùng tột. Các phiền não là đạo tràng, vì biết như thật. Chúng sanh là đạo tràng, vì biết vô ngã. Tất cả pháp là đạo tràng, vì biết các pháp không. Hàng ma là đạo tràng, vì không bị khuynh động. Ba cõi là đạo tràng, vì không chỗ đến. Sư tử rống là đạo tràng, vì không chỗ sợ. Ngũ lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp là đạo tràng, vì không có các lỗi lầm. Tam minh là đạo tràng, vì không chướng ngại khác. Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành tựu Nhất thiết trí.

Như thế, này thiện nam tử! Bồ-tát nếu dùng các ba-la-mật mà giáo hóa chúng sanh, những hành động tạo tác, giở chân hạ chân, phải biết đều là từ đạo tràng đến, trụ nơi Phật pháp vậy.”

Khi ông nói pháp này, năm trăm vị trời người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Đối với Phật, công hạnh những vị Bồ-tát chưa viên mãn nên gọi là đồng tử.

Phật bảo đồng tử Quang Nghiêm đến thăm bệnh cư sĩ Duy-ma-cật, đồng tử Quang Nghiêm xin khước từ, vì có lần đã gặp cư sĩ Duy-ma-cật trên đường vào thành Tỳ-da-ly. Đồng tử chào và hỏi cư sĩ từ đâu đến thành này? Cư sĩ Duy-ma-cật trả lời: Tôi từ đạo tràng đến đã làm cho Đồng tử vô cùng ngạc nhiên. Đạo tràng là nơi quy tụ nghe pháp và tu tập. Ở đây cư sĩ Duy-ma-cật từ ngoài thành Tỳ-da-ly đi vào gặp đồng tử Quang Nghiêm, vậy mà nói từ đạo tràng đến. Đồng tử mới hỏi Đạo tràng là chỗ nào? Ông đáp:

Trực tâm là đạo tràng, vì không hư giả. Phát hạnh là đạo tràng, vì hay biện sự. Thâm tâm là đạo tràng, vì tăng ích các công đức. Bồ-đề tâm là đạo tràng, vì không lầm lẫn. Bố thí là đạo tràng, vì không mong quả báo. Trì giới là đạo tràng, vì nguyện được đầy đủ. Nhẫn nhục là đạo tràng, vì đối với chúng sanh không tâm chướng ngại. Tinh tấn là đạo tràng vì không biếng nhác lui sụt. Thiền định là đạo tràng, vì tâm điều nhu. Trí tuệ là đạo tràng, vì hiện thấy các pháp. Từ là đạo tràng, vì bình đẳng đối với chúng sanh. Bi là đạo tràng, vì nhẫn chịu những sự đau khổ. Hỷ là đạo tràng, vì ưa thích pháp. Xả là đạo tràng, vì dứt bỏ yêu ghét. Thần thông là đạo tràng, vì thành tựu lục thông. Giải thoát là đạo tràng, vì hay bội xả. Phương tiện là đạo tràng, vì giáo hóa chúng sanh. Tứ nhiếp pháp là đạo tràng, vì nhiếp phục chúng sanh. Đa văn là đạo tràng, vì như nghe mà thực hành. Phục tâm là đạo tràng, vì chánh quán các pháp. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đạo tràng, vì bỏ các pháp hữu vi. Tứ đế là đạo tràng, vì không dối thế gian. Duyên khởi là đạo tràng, vì vô minh cho đến lão tử đều không cùng tột.

Theo cư sĩ Duy-ma-cật, đạo tràng là không hình tướng, không nơi chốn. Khi đi đứng nằm ngồi, bất cứ nơi nào, dù ở giữa chợ ồn náo..., tâm vẫn như như bất động, thanh tịnh bình trực, ngay đó là đạo tràng chứ không cần tìm kiếm ở đâu xa.

Duyên khởi là đạo tràng vì vô minh cho đến lão tử đều không cùng tận. Trong mười hai nhân duyên, khởi đầu là vô minh đến cuối cùng là lão tử. Tại sao nói duyên khởi là đạo tràng? Vì đối với mười hai nhân duyên, người mê bị dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Người tỉnh biết mười hai nhân duyên là do duyên hợp không thật có, không tự tánh, nên không bị chi phối trong sanh tử. Vì vậy nói duyên khởi là đạo tràng.

Các phiền não là đạo tràng, vì biết như thật. Vì sao nói phiền não là đạo tràng? Vì khi phiền não dấy lên liền biết phiền não không thật, không tự tánh, thì ngay đó là đạo tràng. Thường chúng ta muốn tìm cầu chân chánh ở ngoài tà ngụy. Nhưng khi nhận biết được tà ngụy thì đó là chân chánh rồi. Điều này nghe như khó hiểu mà là một lẽ thật.

Chúng sanh là đạo tràng, vì biết vô ngã. Chúng ta ai cũng có thân, nếu chấp thân này là thật, đó là chúng sanh mê muội. Nếu biết thân do duyên hợp hư dối, là vô ngã không có chủ thì hết mê lầm. Ngay nơi thân chúng sanh mà thấy vô ngã, chứ không có vô ngã ngoài chúng sanh. Hiểu như vậy rồi không còn chấp thân nữa vì nó là vô ngã, đó là đạo tràng.

Tất cả pháp là đạo tràng, vì biết các pháp không. Không tức là không tự tánh. Hàng ma là đạo tràng, vì không bị khuynh động. Ba cõi là đạo tràng, vì không chỗ đến. Hàng ma là khi đối với trần cảnh ngũ dục, niệm khởi liền biết không theo, trở về với tâm thanh tịnh bất động như như, đó là biết hàng ma. Trong ba cõi này mà không tạo nghiệp để dẫn sanh trong tam giới thì ba cõi là đạo tràng.

Sư tử rống là đạo tràng, vì không chỗ sợ. Ngũ lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp là đạo tràng, vì không có các lỗi lầm. Tam minh là đạo tràng, vì không chướng ngại khác. Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành tựu Nhất thiết trí.

Phật thuyết pháp như sử tử rống, vì những gì ngài nói ra là từ trí tuệ thấy biết như thật, nên ngài không sợ; giả sử có ai cần hỏi ngài sẵn sàng giải đáp tường tận, thông suốt.

Tam minh là đạo tràng vì không chướng ngại khác. Chúng ta phải lập đạo tràng như cư sĩ Duy-ma-cật để mọi hành động của mình đều từ trong đạo tràng mà đến, dù ở đâu cũng là ở trong Phật pháp. Được như vậy chúng ta sẽ không bị chướng ngại.

Nhất thiết trí là trí tuệ hiểu biết tất cả các pháp đúng như thật. Trí này duy chỉ đức Phật, bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mới có. Cho nên nói, một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành tựu Nhất thiết trí.

Như thế, này thiện nam tử! Bồ-tát nếu dùng các ba-la-mật mà giáo hóa chúng sanh, những hành động tạo tác, giở chân hạ chân, phải biết đều là từ đạo tràng đến, trụ nơi Phật pháp vậy. Ở đây cư sĩ Duy-ma-cật kết luận, Bồ-tát nên dùng pháp ba-la-mật để giáo hóa chúng sanh. Mọi hành động tạo tác từ giở chân lên để chân xuống, bước tới bước lui... đều ở trong đạo tràng, đều an trụ trong Phật pháp.

Khi ông nói pháp này, năm trăm vị trời người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Chỗ này làm cho chúng ta sáng thêm về ý nghĩa đạo tràng. Đạo tràng là nơi tụ hội để học đạo, để tu. Thí dụ, người từ thành phố đi tới trước cửa thiền viện Thường Chiếu, thấy người ở trong cổng Thường Chiếu đi ra, hỏi huynh ở đâu đến? Người kia trả lời, tôi ở trong đạo tràng Thường Chiếu mới ra, tức là vừa rời khỏi chỗ tu tập. Còn ở đây một ông từ trong thành đi ra, một ông ngoài thành đi vào, không có chùa chiền, không có tịnh xá, hỏi ông từ đâu vào, lại nói từ đạo tràng vào. Như vậy quan niệm về đạo tràng của cư sĩ Duy-ma-cật khác với chúng ta. Chúng ta thấy đạo tràng trên hình tướng, nếu trong tâm ta nghĩ điều tốt điều hay, biết ứng dụng pháp tu để được tỉnh giác thì đó mới là đạo tràng. Dù đi đâu, dù ở chỗ nào mà sống được như thế thì nơi nơi đều là đạo tràng. Nếu ngồi thiền ở trên chùa nhưng trong tâm nghĩ tưởng những điều xấu thì tuy đang ở đạo tràng vẫn không phải là đạo tràng. Như vậy thì đạo tràng của chúng ta chỉ là đạo tràng hình thức, chưa đi sâu trong tâm tánh.

Cư sĩ Duy-ma-cật nói đạo tràng là đi thẳng vào tâm tánh. Cho nên ông nói trực tâm là đạo tràng, phát hạnh là đạo tràng. Trực tâm là tâm ngay thẳng. Phát hạnh là khởi tâm làm những điều thiện. Thâm tâm là đạo tràng. Bồ-đề tâm là đạo tràng. Bố thí là đạo tràng. Trì giới là đạo tràng. Cho tới lục độ, hàng ma, giảng pháp, giảng kinh... lúc nào cũng là đạo tràng.

Nói tóm lại, đạo tràng của cư sĩ Duy-ma-cật là đạo tràng của tự tâm, của hành động chân thật, từ tâm chân thật phát ra. Như vậy nghĩa của đạo tràng rất sâu rộng. Khi tâm chúng ta thanh tịnh, sống hợp với đạo lý, dù ở nơi đâu cũng đều là đạo tràng. Ở đâu mà chúng ta làm lợi ích chúng sanh, đem lợi ích đến cho mọi người mà không ngã không nhân thì nơi đó cũng là đạo tràng.

Hiểu được nghĩa đạo tràng này chúng ta mới thấy, người tu dù ở bất cứ nơi nào, trong chùa, tịnh xá để an lành tu, hoặc phải đi giáo hóa, vào chợ búa, xóm làng mà vẫn giữ tâm thanh tịnh, ý nghĩ việc làm trong sạch, thảy đều là đạo tràng. Đừng chấp phải ở chỗ vắng vẻ mới là đạo tràng, ra chợ búa vào xóm làng không phải đạo tràng. Chấp như vậy là bệnh. Chủ yếu nhắm thẳng vào tâm, nên mọi hành động của Bồ-tát có khi dường như không hợp đạo lý, mà vẫn là đạo lý, vì tâm các ngài không còn dính mắc, luôn vị tha.

BỒ-TÁT TRÌ THẾ

Chánh văn:

Phật bảo Bồ-tát Trì Thế:

- Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Bồ-tát Trì Thế bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Nhớ thuở xưa, con ở trong tịnh thất, khi đó ma Ba-tuần đem một muôn hai ngàn Thiên nữ, dáng giống như là Đế-thích, đánh nhạc ca hát, đi đến chỗ của con cùng những quyến thuộc của nó, đầu lễ dưới chân con, chắp tay cung kính đứng qua một bên. Con nghĩ đó là Đế-thích nên nói rằng: “Lành thay! Kiều-thi-ca, ông tuy có phước, không nên tự buông lung, nên quán ngũ dục là vô thường để cầu căn lành, nơi thân mạng, tài sản mà tu pháp kiên cố.”

Liền khi ấy, ma vương nói với con: “Này Chánh sĩ, nên nhận một muôn hai ngàn Thiên nữ này, có thể đủ để quét dọn.” Con nói rằng: “Kiều-thi-ca, không nên đem vật phi pháp mà cúng dường cho Sa-môn Thích tử. Đây không phải chỗ ta nên nhận.”

Con vừa nói rồi, khi ấy ông Duy-ma-cật đi đến bảo con: “Không phải là trời Đế-thích, ấy là ma đến nhiễu loạn ông đó!”

Ngài Duy-ma-cật liền nói với ma: “Những người nữ này có thể đem cho tôi. Như tôi thì mới đáng nhận.” Ma liền hoảng sợ, nghĩ rằng ông Duy-ma-cật đâu không làm não hại ta, muốn ẩn hình đi mà không thể ẩn được. Dùng hết thần lực của nó cũng không thể đi được. Liền nghe trong hư không có tiếng nói: “Ba-tuần, hãy đem những người nữ này cho đi thì mới có thể đi được.” Ma vì sợ nên mới miễn cưỡng mà cho.

Khi ấy ông Duy-ma-cật mới bảo những người nữ ấy: “Ma đã đem các chị cho tôi rồi. Nay các chị đều phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."

Liền tùy căn cơ thích hợp mà vì nói pháp, khiến cho các vị đó phát ý đạo. Lại nói rằng: “Các chị đã phát ý đạo, có pháp lạc có thể tự vui. Không nên lại vui theo ngũ dục nữa.”

Các Thiên nữ liền hỏi: “Những gì là pháp lạc?"

Ngài đáp: “Vui thường tin Phật, vui muốn nghe pháp, vui cúng dường chúng tăng, vui lìa ngũ dục, vui quán ngũ ấm như oán tặc, vui quán tứ đại như rắn độc, vui quán nội nhập như xóm rỗng. Vui tùy hộ ý đạo, vui làm lợi ích cho chúng sanh, vui cung kính bậc sư trưởng. Vui rộng làm việc bố thí, vui kiên trì giới luật, vui nhẫn nhục nhu hòa, vui siêng làm các căn lành, vui thiền định không loạn, vui lìa cấu được trí tuệ sáng suốt. Vui rộng phát tâm Bồ-đề, vui hàng phục các ma, vui đoạn các phiền não, vui thanh tịnh cõi nước Phật, vui thành tựu những tướng tốt nên tu các công đức. Vui trang nghiêm đạo tràng. Vui nghe những pháp thâm sâu không sợ. Vui ba môn giải thoát, không vui phi thời. Vui gần những người đồng học, vui với những người không phải đồng học, tâm không giận không ngại. Vui đem sự bảo hộ những người ác tri thức, vui gần gũi những thiện tri thức. Vui tâm hỷ thanh tịnh, vui tu pháp vô lượng đạo phẩm. Ấy là pháp vui của những vị Bồ-tát."

Khi ấy Ba-tuần bảo những Thiên nữ rằng: “Ta muốn cùng các ngươi trở về thiên cung."

Các vị Thiên nữ nói: “Ông đã đem chúng tôi cho cư sĩ, có pháp vui, chúng tôi rất là vui, không trở lại vui cái vui ngũ dục nữa.”

Ma nói: “Cư sĩ có thể xả những người nữ này không? Tất cả những sở hữu đem cho người, ấy mới gọi là Bồ-tát.”

Ông Duy-ma-cật liền bảo: “Ta đã xả rồi. Ngươi hãy đem những người đó đi, khiến cho tất cả chúng sanh được pháp nguyện đầy đủ.”

Khi ấy những vị Thiên nữ hỏi ông Duy-ma-cật: “Chúng tôi làm sao mà ở trong cung ma được?”

Ông Duy-ma-cật nói: “Này các chị, có pháp môn tên Vô tận đăng, các chị nên học. Vô tận đăng đó, ví như một ngọn đèn mồi trăm ngàn ngọn đèn, những chỗ tối đều sáng, sáng khắp không cùng tận. Như thế, các chị! Phàm một vị Bồ-tát đã mở được đạo, khiến trăm ngàn chúng sanh đều được phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với ý đạo kia cũng không có diệt hết, tùy chỗ nói pháp, mà tự tăng trưởng lợi ích tất cả pháp lành, ấy gọi là Vô tận đăng. Các chị tuy ở trong cung ma, dùng pháp Vô tận đăng này khiến cho vô số thiên tử Thiên nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để đền ơn Phật, cũng là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh vậy.”

Khi ấy Thiên nữ cúi đầu lễ dưới chân ông Duy-ma-cật, đi theo ma trở về cung, bỗng nhiên biến mất.

Bạch Thế Tôn! Ông Duy-ma-cật có thần lực tự tại, trí tuệ biện tài như thế, nên con không kham đến thăm bệnh ông.

Giảng:

Phật bảo Bồ-tát Trì Thế:

- Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Bồ-tát Trì Thế bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Nhớ thuở xưa, con ở trong tịnh thất, khi đó ma Ba-tuần đem một muôn hai ngàn Thiên nữ, dáng giống như là Đế-thích, đánh nhạc ca hát, đi đến chỗ của con cùng những quyến thuộc của nó, đầu lễ dưới chân con, chắp tay cung kính đứng qua một bên. Con nghĩ đó là Đế-thích nên nói rằng: “Lành thay! Kiều-thi-ca, ông tuy có phước, không nên tự buông lung, nên quán ngũ dục là vô thường để cầu căn lành, nơi thân mạng, tài sản mà tu pháp kiên cố.”

Liền khi ấy, ma vương nói với con: “Này Chánh sĩ, nên nhận một muôn hai ngàn Thiên nữ này, có thể đủ để quét dọn.” Con nói rằng: “Kiều-thi-ca, không nên đem vật phi pháp mà cúng dường cho Sa-môn Thích tử. Đây không phải chỗ ta nên nhận.”

Con vừa nói rồi, khi ấy ông Duy-ma-cật đi đến bảo con: “Không phải là trời Đế-thích, ấy là ma đến nhiễu loạn ông đó!”

Bồ-tát Trì Thế còn đang tu hạnh thanh tịnh ở thất vắng, tuy tâm Bồ-tát nhưng chưa nhập thế nên bị ma Ba-tuần đánh lừa. Ma giả làm trời Đế-thích, ngài lầm tưởng là Đế-thích thật. Sau khi thưa hỏi qua lại xong, ma còn đem một muôn hai ngàn Thiên nữ cúng dường cho ngài. Ngài nghĩ mình là người tu phải nghiêm trì giới luật, nên không nhận và nói đây là sự cúng dường phi pháp. Lúc đó cư sĩ Duy-ma-cật đến và giản trạch cho ngài Trì Thế biết, đó không phải là trời Đế-thích mà chính là ma Ba-tuần, ngài đã lầm. Bây giờ ông bắt đầu nói chuyện với ma.

Ngài Duy-ma-cật liền nói với ma: “Những người nữ này có thể đem cho tôi. Như tôi thì mới đáng nhận.” Ma liền hoảng sợ, nghĩ rằng ông Duy-ma-cật đâu không làm não hại ta, muốn ẩn hình đi mà không thể ẩn được. Dùng hết thần lực của nó cũng không thể đi được. Liền nghe trong hư không có tiếng nói: “Ba-tuần, hãy đem những người nữ này cho đi thì mới có thể đi được.” Ma vì sợ nên mới miễn cưỡng mà cho.

Khi ấy ông Duy-ma-cật mới bảo những người nữ ấy: “Ma đã đem các chị cho tôi rồi. Nay các chị đều phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."

Ma Ba-tuần muốn cúng các Thiên nữ cho Bồ-tát Trì Thế, cư sĩ Duy-ma-cật liền nói, hãy để cho tôi. Ma sợ quá miễn cưỡng cho.

Liền tùy căn cơ thích hợp mà vì nói pháp, khiến cho các vị đó phát ý đạo. Lại nói rằng: “Các chị đã phát ý đạo, có pháp lạc có thể tự vui. Không nên lại vui theo ngũ dục nữa.”

Các Thiên nữ liền hỏi: “Những gì là pháp lạc?"

Ngài đáp: “Vui thường tin Phật, vui muốn nghe pháp, vui cúng dường chúng tăng...

Sau đó cư sĩ Duy-ma-cật tùy căn cơ thích hợp nói pháp cho chúng ma nghe, khiến họ được phát ý đạo. Như vậy ba cái vui đầu của người học đạo là vui đối với Tam bảo, vui tin Phật, vui nghe pháp, vui cúng dường chúng tăng.

Vui lìa ngũ dục, vui quán ngũ ấm như oán tặc, vui quán tứ đại như rắn độc, vui quán nội nhập như xóm rỗng. Những cái vui này là vui nhận rõ được thật tướng của thân, vui vì đã xa lìa ngũ dục. Thân năm ấm của chúng ta luôn phiền nhiễu, khổ đau, không có gì vui thích, không có gì đáng để mến yêu; mà lại mê lầm sanh mến yêu nó. Cho nên phải vui quán thân năm ấm như là oán tặc, vui quán tứ đại như bốn con rắn độc, luôn chực chờ hại nhau, vui quán nội nhập như xóm rỗng, không có gì là thật.

Vui tùy hộ ý đạo, vui làm lợi ích cho chúng sanh, vui cung kính bậc sư trưởng. Vui tùy hộ ý đạo tức là vui tùy hỷ. Người có tâm đạo phải bảo bọc để tâm đạo họ không mất, không lui sụt, đó cũng là cái vui của mình. Vui làm lợi ích cho chúng sanh. Vui cung kính, cúng dường các bậc sư trưởng. Đó là ba cái vui bên ngoài đối với thầy bạn.

Vui rộng làm việc bố thí, vui kiên trì giới luật, vui nhẫn nhục nhu hòa, vui siêng làm các căn lành, vui thiền định không loạn, vui lìa cấu được trí tuệ sáng suốt. Những cái vui kể trên là vui lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Mỗi pháp đều có lợi ích riêng, như thiền định thì tâm không loạn, trí tuệ thì lìa được cấu uế.

Vui rộng phát tâm Bồ-đề, vui hàng phục các ma, vui đoạn các phiền não, vui thanh tịnh cõi nước Phật, vui thành tựu những tướng tốt nên tu các công đức. Vui trang nghiêm đạo tràng. Đây là những niềm vui do công đức tu hành mà được. Vui khi phát tâm Bồ-đề rộng lớn, vui dứt trừ hết phiền não, vui hàng phục các ma, vui thanh tịnh cõi Phật và trang nghiêm đạo tràng.

Vui nghe những pháp thâm sâu không sợ. Vui ba môn giải thoát, không vui phi thời. Vui gần những người đồng học, vui với những người không phải đồng học, tâm không giận không ngại. Vui đem sự bảo hộ những người ác tri thức, vui gần gũi những thiện tri thức.

Vui gần gũi bạn đồng học thì dễ. Vui với những người không phải là bạn đồng học, không cùng tư tưởng, không cùng quan điểm tu hành, lại phải sống chung với họ mà tâm không sân giận, không chướng ngại, vui đó thật là khó. Chúng ta phải cố gắng thực hành được như vậy mới là tiến bộ.

Thiện tri thức, mình gần gũi thân cận, bảo hộ là lẽ đương nhiên, là bổn phận phải làm. Với ác tri thức, dù sống chung với họ, chẳng những không ghét không hại mà còn vui bảo hộ họ, việc này thật khó làm. Như những việc thông thường, hợp đạo lý mình vui thì dễ. Việc không hợp đạo lý vẫn vui, điều đó hết sức khó.

Tóm lại, bạn đồng học và thiện tri thức là những người thuận duyên, phải bảo hộ, người không đồng học và ác tri thức là những người nghịch duyên, cũng phải bảo hộ. Dù thuận hay nghịch mình vẫn xử sự tốt hết. Được như vậy mới thật là tâm hạnh của Bồ-tát.

Vui tâm hỷ thanh tịnh, vui tu pháp vô lượng đạo phẩm. Ấy là pháp vui của những vị Bồ-tát. Các pháp vui của Bồ-tát như tâm tùy hỷ, tu vô lượng đạo phẩm, tương đối dễ. Còn những pháp vui đã nói ở trên rất khó thực hành, muốn được nguồn vui đó phải huân tập những tánh tốt như nhẫn nhục, nhu hòa... để khi gặp những điều trái ý nghịch lòng không thấy chướng ngại.

Khi ấy Ba-tuần bảo những Thiên nữ rằng: “Ta muốn cùng các ngươi trở về thiên cung."

Các vị Thiên nữ nói: “Ông đã đem chúng tôi cho cư sĩ, có pháp vui, chúng tôi rất là vui, không trở lại vui cái vui ngũ dục nữa.”

Nghe qua những lời giảng dạy của cư sĩ Duy-ma- cật, các Thiên nữ nhận hiểu được nên thấy vui. Như vậy mới biết pháp Bồ-tát tuy khó, nhưng người nghe nhận hiểu được là đã có chủng tử lành. Chúng ta thường có quan niệm ma là xấu, nhưng đôi khi ma biết chuyển tâm cũng thành tốt vậy. Còn người tu là tốt nhưng có lúc cũng khởi tâm xấu. Cho nên đừng lầm cho ma là hoàn toàn xấu hết.

Ma nói: “Cư sĩ có thể xả những người nữ này không? Tất cả những sở hữu đem cho người, ấy mới gọi là Bồ-tát.” Ma Vương muốn cư sĩ Duy-ma-cật trả lại những Thiên nữ nên mới nói, nếu ông tu hạnh Bồ-tát thì tất cả những gì thuộc về ông, nên thí xả cho người mới gọi là Bồ-tát.

Ông Duy-ma-cật liền bảo: “Ta đã xả rồi. Ngươi hãy đem những người đó đi, khiến cho tất cả chúng sanh được pháp nguyện đầy đủ.”

Khi ấy những vị Thiên nữ hỏi ông Duy-ma-cật: “Chúng tôi làm sao mà ở trong cung ma được?”

Ông Duy-ma-cật nói: “Này các chị, có pháp môn tên Vô tận đăng, các chị nên học. Vô tận đăng đó, ví như một ngọn đèn mồi trăm ngàn ngọn đèn, những chỗ tối đều sáng, sáng khắp không cùng tận. Như thế, các chị! Phàm một vị Bồ-tát đã mở được đạo, khiến trăm ngàn chúng sanh đều được phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với ý đạo kia cũng không có diệt hết, tùy chỗ nói pháp, mà tự tăng trưởng lợi ích tất cả pháp lành, ấy gọi là Vô tận đăng.

Những Thiên nữ này đã phát tâm Bồ-đề là đã ra khỏi cung ma, thì đâu thể theo ma vương được. Bấy giờ ông mới giảng pháp Vô tận đăng cho họ nghe. Tuy ở cung ma, nhưng một người đã sáng giống như một ngọn đèn thắp sáng, mồi trăm ngàn ngọn đèn khác thảy được sáng. Tất cả chỗ tối đều sáng. Ông dạy những Thiên nữ đã phát tâm Bồ-đề nên trở về cung ma khai đạo, hướng dẫn những quyến thuộc ma quay về Phật đạo, để cho trăm ngàn chúng sanh được phát tâm vô thượng Bồ-đề. Những vị đó đối với ý đạo không thể mất, tùy chỗ nói pháp làm tăng trưởng những điều lành. Như vậy gọi là Vô tận đăng.

Các chị tuy ở trong cung ma, dùng pháp Vô tận đăng này khiến cho vô số thiên tử Thiên nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để đền ơn Phật, cũng là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh vậy. Như vậy ở ngay trong cung ma mà đem pháp Phật giáo hóa mọi người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó là đã đền ơn Phật, làm lợi ích cho chúng sanh. Đây chính là phương tiện hành đạo rất tốt.

Khi ấy Thiên nữ cúi đầu lễ dưới chân ông Duy-ma-cật, đi theo ma trở về cung, bỗng nhiên biến mất.

Bạch Thế Tôn! Ông Duy-ma-cật có thần lực tự tại, trí tuệ biện tài như thế, nên con không kham đến thăm bệnh ông.

Lâu nay chúng ta cố chấp ma là đáng ghét đáng sợ. Chẳng những ma không biết tu, không bao giờ phát tâm Bồ-đề, mà còn phá hại người tu. Như ngài Trì Thế là Bồ-tát vẫn bị ma giả Đế-thích để lừa gạt. Cư sĩ Duy-ma-cật cũng là Bồ-tát, nhưng thấy ma liền biết là ma tới quấy phá nhiễu loạn Bồ-tát. Ông giáo hóa khiến ma phát tâm Bồ-đề. Như vậy ma có thật xấu hay không? Ở đây ma ngầm chỉ cho những người xấu ác. Chúng ta không nên có quan niệm người xấu ác không thể tu hành, chẳng qua vì mình chưa đủ năng lực, phương tiện để chuyển hóa họ. Như vậy mình có một phần lỗi, họ cũng một phần, chứ đừng hoàn toàn đổ hết lỗi cho họ.

Tóm lại, ở đây hai vị Bồ-tát, Bồ-tát xuất gia bị ma gạt, Bồ-tát cư sĩ lại giáo hóa được ma. Như vậy đâu phải ma chỉ hại người, nếu khéo chuyển thì ma cũng phát tâm Bồ-đề được. Vậy nên, dù kẻ trộm cướp, kẻ xấu xa, nếu chúng ta có đủ phương tiện, đủ đức độ, cũng có thể cảm hóa họ được, chứ không nên một bề quy trách nhiệm cho họ. Hiểu như vậy, chúng ta mới là người sáng suốt, là người thật công bình.

TRƯỞNG GIẢ THIỆN ĐỨC

Chánh văn:

Phật bảo trưởng giả Thiện Đức:

- Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Thiện Đức bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Nhớ thuở xưa con ở trong nhà cha của con, lập hội đại thí cúng dường tất cả vị Sa-môn, Bà-la-môn và những người ngoại đạo, bần cùng, hạ tiện, cô độc, người ăn xin... suốt cả bảy ngày. Khi ấy ông Duy-ma-cật đến trong hội bảo con rằng: “Này ông trưởng giả, phàm làm đại thí hội thì không phải là việc như ông đã làm. Phải làm hội pháp thí, đâu dùng hội tài thí làm gì!”

Con mới hỏi: “Này cư sĩ, thế nào gọi là hội pháp thí?"

Ông đáp: “Hội pháp thí là không trước không sau, đồng thời cúng dường tất cả chúng sanh, ấy gọi là hội pháp thí.”

Con hỏi: “Nghĩa là sao?”

Ông bảo: “Nghĩa là vì Bồ-đề, khởi tâm từ; vì cứu giúp chúng sanh, khởi tâm đại bi; vì gìn giữ chánh pháp, khởi tâm hỷ; vì nhiếp trí tuệ, hành tâm xả. Vì nhiếp xan tham, khởi bố thí ba-la-mật; vì giáo hóa phạm giới, khởi trì giới ba-la-mật; vì không ngã pháp, khởi nhẫn nhục ba-la-mật; vì lìa tướng thân tâm, khởi tinh tấn ba-la-mật; vì tướng Bồ-đề, khởi thiền định ba-la-mật; vì Nhất thiết trí, khởi trí tuệ ba-la-mật. Giáo hóa chúng sanh mà khởi nơi Không; chẳng xả pháp hữu vi mà khởi vô tướng; thị hiện thọ sanh mà khởi vô tác; hộ trì chánh pháp mà khởi sức phương tiện; vì độ chúng sanh, khởi tứ nhiếp pháp; vì kính thờ tất cả, khởi trừ pháp mạn; đối với thân mạng tài, khởi ba pháp kiên cố; ở trong sáu niệm, khởi pháp tư niệm; ở trong sáu pháp hòa kính, khởi tâm chánh trực; thực hành thiện pháp chân chánh, khởi tịnh mạng; tâm thanh tịnh hoan hỷ, khởi thân cận bậc hiền thánh; không ghét người ác, khởi tâm điều phục; vì pháp xuất gia, khởi thâm tâm; vì như lời nói thực hành, khởi đa văn; vì pháp vô tránh, khởi ở chỗ vắng vẻ; hướng đến Phật tuệ, khởi ở chỗ an tọa; mở trói buộc cho chúng sanh, khởi chỗ tu hành; vì đầy đủ tướng hảo và thanh tịnh cõi Phật, khởi nghiệp phước đức; biết tất cả tâm niệm chúng sanh, tùy đó nói pháp, khởi nơi nghiệp trí; biết tất cả pháp không thủ không xả, vào môn nhất tướng, khởi ra nghiệp tuệ; đoạn tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả pháp bất thiện, khởi ra tất cả nghiệp thiện; vì được Nhất thiết trí tuệ, tất cả thiện pháp, khởi tất cả pháp trợ Phật đạo. Như thế, này thiện nam tử! Đấy là hội pháp thí. Nếu Bồ-tát trụ nơi hội pháp thí này, là đại thí chủ cũng là phước điền của tất cả thế gian."

Bạch Thế Tôn! Khi ông Duy-ma-cật nói pháp này, trong chúng Bà-la-môn hai trăm người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Con khi ấy tâm được thanh tịnh, tán thán điều chưa từng có. Cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy-ma-cật, liền cởi xâu chuỗi anh lạc giá trị trăm ngàn để dâng lên cho ông mà ông không nhận. Con nói: “Thưa cư sĩ, mong ngài nhận, tùy ý mà cho."

Ông Duy-ma-cật mới nhận chuỗi anh lạc, phân làm hai phần: một phần thí cho người ăn mày thấp nhất ở trong hội, còn một phần dâng lên đức Phật Nan Thắng. Tất cả chúng hội đều thấy cõi nước Quang Minh của đức Phật Nan Thắng, lại thấy xâu chuỗi anh lạc ở chỗ Phật kia biến thành đài báu bốn trụ, bốn phía trang nghiêm không che lấp chướng ngại nhau.

Khi đó ông Duy-ma-cật hiện thần biến rồi lại nói: “Nếu vị thí chủ mà tâm bình đẳng thí cho người ăn mày thấp nhất cũng như là tướng phước điền của Như Lai, không chỗ phân biệt, bình đẳng đại bi, không cầu quả báo, ấy gọi là pháp thí đầy đủ.” Người ăn mày thấp nhất trong thành thấy được thần lực này rồi, nghe lời nói kia, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên con không kham đến thăm bệnh ông.

Như thế các Bồ-tát mỗi vị đến trước Phật trình bày duyên xưa của mình, khen ngợi và thuật lại những lời ông Duy-ma-cật, đều nói rằng chúng con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Giảng:

Phật bảo trưởng giả Thiện Đức:

- Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Thiện Đức bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Nhớ thuở xưa con ở trong nhà cha của con, lập hội đại thí cúng dường tất cả vị Sa-môn, Bà-la-môn và những người ngoại đạo, bần cùng, hạ tiện, cô độc, người ăn xin... suốt cả bảy ngày. Khi ấy ông Duy-ma-cật đến trong hội bảo con rằng: “Này ông trưởng giả, phàm làm đại thí hội thì không phải là việc như ông đã làm. Phải làm hội pháp thí, đâu dùng hội tài thí làm gì!”

Con mới hỏi: “Này cư sĩ, thế nào gọi là hội pháp thí?"

Ông đáp: “Hội pháp thí là không trước không sau, đồng thời cúng dường tất cả chúng sanh, ấy gọi là hội pháp thí.”

Con hỏi: “Nghĩa là sao?”

Ông bảo: “Nghĩa là vì Bồ-đề, khởi tâm từ; vì cứu giúp chúng sanh, khởi tâm đại bi; vì gìn giữ chánh pháp, khởi tâm hỷ; vì nhiếp trí tuệ, hành tâm xả. Người sống với tánh Bồ-đề được an vui, muốn đem niềm an vui đó đến cho người, nên nói khởi lòng từ là do tâm Bồ-đề; sở dĩ có tâm bi vì muốn cứu độ chúng sanh; sở dĩ có tâm hỷ vì gìn giữ chánh pháp; sở dĩ có tâm xả vì nhiếp được trí tuệ. Đó là bốn pháp tâm vô lượng, từ bi hỷ xả.

Vì nhiếp xan tham, khởi bố thí ba-la-mật; vì giáo hóa phạm giới, khởi trì giới ba-la-mật; vì không ngã pháp, khởi nhẫn nhục ba-la-mật; vì lìa tướng thân tâm, khởi tinh tấn ba-la-mật; vì tướng Bồ-đề, khởi thiền định ba-la-mật; vì Nhất thiết trí, khởi trí tuệ ba-la-mật. Lục độ là sáu pháp ba-la-mật, gồm có bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ ba-la-mật. Lục độ thì mỗi độ đều có căn do. Vì nhiếp kẻ xan tham nên tu hạnh bố thí. Vì giáo hóa kẻ phạm giới nên tu trì giới... Như vậy mỗi pháp của lục độ đều trị một bệnh của chúng sanh.

Giáo hóa chúng sanh mà khởi nơi Không; chẳng xả pháp hữu vi mà khởi vô tướng; thị hiện thọ sanh mà khởi vô tác. Tam giải thoát môn là Không, vô tướng, vô tác. Sở dĩ có ba môn giải thoát này là vì giáo hóa chúng sanh nên khởi ra Không, do xả pháp hữu vi nên khởi vô tướng, do thị hiện thọ sanh nên khởi vô tác. Như vậy Không, vô tướng, vô tác (hay vô nguyện) đều có lý do mà khởi.

Hộ trì chánh pháp mà khởi sức phương tiện; vì độ chúng sanh, khởi tứ nhiếp pháp; vì kính thờ tất cả, khởi trừ pháp mạn; đối với thân mạng tài, khởi ba pháp kiên cố; ở trong sáu niệm, khởi pháp tư niệm; ở trong sáu pháp hòa kính, khởi tâm chánh trực.

Vì hộ trì chánh pháp nên khởi sức phương tiện, nghĩa là dùng phương tiện để bảo hộ chánh pháp; vì độ chúng sanh mà khởi tứ nhiếp pháp nên tứ nhiếp pháp là phương tiện; do kính thờ tất cả nên trừ pháp mạn. Chữ mạn nói chung là ngã mạn, tăng thượng mạn... Đối với thân thể, mạng sống, tài sản mà khởi ba pháp kiên cố. Ba pháp kiên cố là pháp thân, tuệ mạng, công đức pháp tài. Chúng ta ai cũng có ba pháp là thân, mạng, tài. Thân này là vô thường, mạng sống tạm bợ, tài sản cũng vô thường. Như vậy ba pháp vô thường tạm bợ đổi thành ba pháp kiên cố, đó là pháp thân bất sanh bất diệt, trí tuệ là mạng không bị sanh diệt, tài là công đức pháp tài.

Sáu niệm là niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm giới, niệm thí và niệm thiên. Ở trong sáu niệm mà khởi tư duy pháp. Ở trong sáu pháp hòa kính khởi tâm chánh trực. Như vậy đối với những pháp hiện tại, phải trừ dẹp hoặc tăng trưởng những pháp tu của mình.

Thực hành thiện pháp chân chánh, khởi tịnh mạng; tâm thanh tịnh hoan hỷ, khởi thân cận bậc hiền thánh; không ghét người ác, khởi tâm điều phục; vì pháp xuất gia, khởi thâm tâm; vì như lời nói thực hành, khởi đa văn; vì pháp vô tránh, khởi ở chỗ vắng vẻ; hướng đến Phật tuệ, khởi ở chỗ an tọa; mở trói buộc cho chúng sanh, khởi chỗ tu hành; vì đầy đủ tướng hảo và thanh tịnh cõi Phật, khởi nghiệp phước đức.

Vì thực hành thiện pháp chân chánh nên khởi tịnh mạng, nghĩa là tu hành đúng như pháp lành của Phật dạy. Tịnh mạng là mạng sống thanh tịnh nên cũng gọi là chánh mạng, ngược lại là tà mạng. Vì tâm thanh tịnh hoan hỷ nên khởi thân cận hiền thánh. Muốn tâm được thanh tịnh, được sự hoan hỷ thì phải nên gần gũi bậc hiền thánh. Vì không ghét người ác nên khởi tâm điều phục. Thường chúng ta đối với người dễ thương hoặc đáng ghét mà không sanh tâm thương ghét, điều đó là khó. Họ đáng ghét mình đừng ghét thì thôi. Như vậy vì chẳng ghét người ác mà khởi điều phục tâm. Khéo điều phục tâm để những niệm ganh ghét, bực bội không khởi lên.

Vì pháp xuất gia mà khởi thâm tâm. Thâm tâm là hành theo pháp của Phật. Vì muốn xuất gia nên trong thâm tâm luôn ghi nhớ và thực hành những điều Phật dạy. Vì như lời nói mà thực hành nên khởi đa văn. Chúng ta có bệnh học nhiều mà quên tu, hoặc ham tu mà không chịu học. Đó là hai cực đoan cần phải tránh. Ở đây vì muốn nói được là làm được, nên cần phải học rộng nghe nhiều. Nghe để hiểu, hiểu rồi mới hành đúng pháp. Học tới đâu tu tới đó, chứ không phải học để nói suông. Vậy muốn như nói mà hành thì phải đa văn. Nói được thì hành được. Học như thế mới đúng là tinh thần học đạo.

Vì pháp vô tránh mà khởi ở chỗ vắng vẻ. Vô tránh là không tranh cãi. Vì không muốn tranh cãi nên ở chỗ vắng vẻ, để thân tâm được thanh tịnh dễ tiến tu. Vì muốn hướng đến Phật tuệ nên khởi an tọa. Ngồi thiền là hướng về Phật tuệ, không cho những niệm thế gian chen vào, nên mới ngồi yên để khai mở trí tuệ Phật. Vì mở trói buộc cho chúng sanh nên khởi tu hành. Như vậy tu là cốt để mở những trói buộc cho chúng sanh, chứ không phải tu cho riêng mình.

Vì muốn đầy đủ tướng tốt và trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, nên tu nghiệp phước đức. Nghiệp phước đức là làm những điều lành, điều tốt cho người. Làm điều lành điều tốt có hai ý, nghĩa là trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt cho mình và trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Phật là Phật tự tâm chứ không phải Phật bên ngoài. Thế nên muốn đầy đủ tướng tốt và cõi nước thanh tịnh thì phải tu nghiệp phước đức. Như vậy là làm những phước đức đó để trang nghiêm cho thân thanh tịnh, cõi Phật thanh tịnh. Và phải làm với thân tâm không lười mỏi, thì khả dĩ mới thành tựu tâm nguyện.

Biết tất cả tâm niệm chúng sanh, tùy đó nói pháp, khởi nơi nghiệp trí; biết tất cả pháp không thủ không xả, vào môn nhất tướng, khởi ra nghiệp tuệ; đoạn tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả pháp bất thiện, khởi ra tất cả nghiệp thiện; vì được Nhất thiết trí tuệ, tất cả thiện pháp, khởi tất cả pháp trợ Phật đạo. Như thế, này thiện nam tử! Đấy là hội pháp thí. Nếu Bồ-tát trụ nơi hội pháp thí này, là đại thí chủ cũng là phước điền của tất cả thế gian.

Bồ-tát hành đạo, vì muốn biết tâm niệm chúng sanh nên khởi nghiệp trí. Tu nghiệp trí để tìm hiểu, thấu suốt những gì Phật dạy, tùy tâm niệm mỗi người, nói pháp giáo hóa và lợi ích cho họ. Biết tất cả pháp không thủ không xả vào môn đệ nhất tướng, đó là khởi nghiệp tuệ. Đoạn tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả pháp bất thiện mà khởi tất cả nghiệp thiện; vì được Nhất thiết trí tuệ, tất cả thiện pháp, khởi tất cả pháp trợ Phật đạo.

Trên đây cư sĩ Duy-ma-cật đã trả lời đầy đủ câu hỏi của trưởng giả Thiện Đức: Hội pháp thí nghĩa là sao? Và ông tán thán, nếu Bồ-tát trụ nơi hội pháp thí này là đại thí chủ, cũng là phước điền của tất cả thế gian.

Bạch Thế Tôn! Khi ông Duy-ma-cật nói pháp này, trong chúng Bà-la-môn hai trăm người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Con khi ấy tâm được thanh tịnh, tán thán điều chưa từng có. Cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy-ma-cật, liền cởi xâu chuỗi anh lạc giá trị trăm ngàn để dâng lên cho ông mà ông không nhận. Con nói: “Thưa cư sĩ, mong ngài nhận, tùy ý mà cho."

Ông Duy-ma-cật mới nhận chuỗi anh lạc, phân làm hai phần: một phần thí cho người ăn mày thấp nhất ở trong hội, còn một phần dâng lên đức Phật Nan Thắng. Tất cả chúng hội đều thấy cõi nước Quang Minh của đức Phật Nan Thắng, lại thấy xâu chuỗi anh lạc ở chỗ Phật kia biến thành đài báu bốn trụ, bốn phía trang nghiêm không che lấp chướng ngại nhau.

Như vậy khi dâng chuỗi anh lạc lên đức Phật Nan Thắng, toàn chúng trong hội nhìn thấy cõi nước Quang Minh của Phật Nan Thắng rất sáng suốt. Lại thấy phân nửa xâu chuỗi đó biến thành đài báu bốn trụ, bốn phía đều đẹp đẽ thông suốt, không gì che lấp chướng ngại nhau.

Khi đó ông Duy-ma-cật hiện thần biến rồi lại nói: “Nếu vị thí chủ mà tâm bình đẳng thí cho người ăn mày thấp nhất cũng như là tướng phước điền của Như Lai, không chỗ phân biệt, bình đẳng đại bi, không cầu quả báo, ấy gọi là pháp thí đầy đủ.” Người ăn mày thấp nhất trong thành thấy được thần lực này rồi, nghe lời nói kia, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên con không kham đến thăm bệnh ông.

Qua đoạn này chúng ta thấy có hai lối thí: bố thí tài và bố thí pháp. Ở trước, cư sĩ Duy-ma-cật giản trạch cho trưởng giả Thiện Đức biết bố thí tài không bằng bố thí pháp, nhưng cuối cùng ông nói, bố thí bình đẳng mới gọi là hội pháp thí. Bình đẳng là sao? Dù đức Phật là bậc đầy đủ vô lượng công đức hay kẻ ăn mày thấp nhất trong hội mà vẫn thấy như nhau. Một xâu chuỗi anh lạc chia hai là bình đẳng không khác. Bố thí mà không một niệm cầu phước đức riêng mình, đó là hội pháp thí. Pháp thí như vậy mới đầy đủ.

Chúng ta xét lại, hội pháp thí đầy đủ như trước thì khó làm, còn hội pháp thí sau nghe như dễ! Giả sử, đang cầm nải chuối định đem cúng Phật, lúc đó người ăn mày đói khát đến xin, mình có dám chia họ phân nửa hay họ đói thì mặc họ, nhất định đem cúng Phật chứ không chia nửa nải cho họ? Nhưng nếu có chia cho họ thì cũng phải với lòng cung kính như đem dâng cúng Phật, chứ không phải cho mà khinh mạn. Bởi chúng ta thường có tâm quý kính người trên, người quan trọng, khinh khi người nhỏ, thấp hèn, nên những gì dành cho người mình cung kính mà kẻ khác đến xin là sanh bực bội, chẳng những không cho mà còn rầy nữa. Kính thì kính quá, khinh cũng khinh quá. Vậy chúng ta thấy, dù cho một nải chuối hay xâu chuỗi anh lạc mà chia với tâm bình đẳng, cũng gọi là hội pháp thí. Ở đây cư sĩ Duy-ma-cật gọi là cụ túc pháp thí, nghĩa là pháp thí đầy đủ.

Tóm lại, ý của đoạn này muốn nói, hội tài thí là hội bố thí tài sản bảy ngày, cũng được phước nhiều. Nhưng phước đó chỉ là phước thế gian, không bằng phước pháp thí. Cho nên cư sĩ Duy-ma-cật mới chỉ ra bao nhiêu pháp để dạy như trên. Đem những pháp đó ứng dụng bố thí cho người thì gọi đó là hội pháp thí. Nhưng kết thúc, với hình ảnh xâu chuỗi anh lạc, phân nửa cúng Phật, phân nửa cúng người bần cùng hạ tiện, mới là đầy đủ pháp thí. Như vậy bố thí bình đẳng là trên hết. Chúng ta phải hiểu cả ba trường hợp, tài thí, pháp thí và bình đẳng thí cho thật tường tận.

Như thế các Bồ-tát mỗi vị đến trước Phật trình bày duyên xưa của mình, khen ngợi và thuật lại những lời ông Duy-ma-cật, đều nói rằng chúng con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

Phẩm trước tất cả đệ tử Thanh văn của Phật đều không dám thăm bệnh cư sĩ Duy-ma-cật. Đến đây các vị Bồ-tát cũng từ chối luôn.

V- PHẨM VĂN-THÙ THĂM BỆNH

Chánh văn:

Khi ấy Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: 

- Ông đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Bậc thượng nhân kia khó mà đối đáp được vì đã thâm đạt được thật tướng, khéo nói pháp yếu, biện tài thông suốt, trí tuệ vô ngại, tất cả các pháp thức của Bồ-tát thảy đều biết hết, những bí tàng của chư Phật không chỗ nào mà chẳng nhập, hàng phục các chúng ma và được thần thông du hý, trí tuệ phương tiện kia đều đã vượt qua. Tuy nhiên con xin vâng thánh chỉ của Phật đến thăm bệnh ông.

Khi đó ở trong chúng hội, các vị Bồ-tát và các vị đại đệ tử, trời Đế-thích, Phạm thiên, Tứ thiên vương đều khởi nghĩ thế này: “Nay hai vị đại sĩ là Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật cùng luận đàm với nhau, ắt là nói diệu pháp!” Liền khi ấy tám ngàn vị Bồ-tát, năm trăm vị Thanh văn, trăm ngàn vị thiên nhân đều muốn đi theo.

Bấy giờ ngài Văn-thù-sư-lợi cùng các Bồ-tát, các vị đại đệ tử và chư thiên nhân cung kính đi nhiễu để vào đại thành Tỳ-da-ly.

Lúc ấy trưởng giả Duy-ma-cật thầm nghĩ: “Nay Văn-thù-sư-lợi cùng với đại chúng đồng đến!” Ông liền dùng thần lực làm cho trong thất trống rỗng, dẹp hết đồ đạc và các thị giả, chỉ để một giường bệnh mà nằm.

Ngài Văn-thù-sư-lợi đã vào trong nhà ông Duy-ma-cật, thấy thất trống rỗng không có vật gì, chỉ có một mình ông nằm trên giường. Khi ấy ông Duy-ma-cật nói:

- Lành thay, Văn-thù-sư-lợi! Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.

Ngài Văn-thù liền đáp:

- Như thế, cư sĩ! Nếu đã đến lại chẳng đến, nếu đã đi lại chẳng đi. Vì cớ sao? Đến không từ đâu đến, đi không có chỗ đến, chỗ có thể thấy càng không thể thấy. Hãy gác việc đó lại. Cư sĩ, bệnh ông có thể chịu nổi chăng? Điều trị có bớt không, không đến nổi tăng chứ? Thế Tôn rất ân cần thăm hỏi ông. Này cư sĩ! Bệnh ấy do nhân gì mà khởi? Bệnh sanh đã lâu chưa? Làm sao để hết bệnh?

Ông Duy-ma-cật nói:

- Từ si có ái, ắt là bệnh tôi sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh, thế nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh hết bệnh thì bệnh tôi cũng dứt. Vì cớ sao? Bồ-tát vì chúng sanh nên vào sanh tử, có sanh tử ắt có bệnh. Nếu chúng sanh được lìa bệnh thì Bồ-tát cũng không bệnh. Ví như ông trưởng giả chỉ có một đứa con, đứa con kia bị bệnh thì cha mẹ cũng bệnh. Nếu đứa con hết bệnh thì cha mẹ cũng khỏi. Bồ-tát cũng như thế, đối với chúng sanh yêu mến như con. Chúng sanh bệnh thì Bồ-tát bệnh, chúng sanh lành bệnh thì Bồ-tát cũng lành bệnh. Lại nói bệnh ấy từ nhân duyên nào mà khởi? Bồ-tát bệnh đó là do lòng đại bi mà khởi.

Ngài Văn-thù-sư-lợi hỏi:

- Này cư sĩ, thất này vì sao trống không không có thị giả?

Ông Duy-ma-cật nói:

- Cõi nước của chư Phật cũng đều trống không.

Lại hỏi: - Lấy gì làm không?

Đáp rằng: - Lấy không làm không.

Lại hỏi: - Không đâu cần không?

Đáp: - Do không phân biệt không, nên không.

Lại hỏi: - Không có thể phân biệt được sao?

Đáp: - Phân biệt cũng không.

Lại hỏi: - Cái không ấy phải cầu ở đâu?

Đáp: - Ở trong sáu mươi hai kiến chấp mà cầu.

Lại hỏi: - Sáu mươi hai kiến chấp phải cầu ở đâu?

Đáp: - Phải ở trong giải thoát của chư Phật mà cầu.

Lại hỏi: - Giải thoát của chư Phật phải cầu ở đâu?

Đáp: - Phải cầu ở trong tất cả tâm hạnh chúng sanh. Lại nhân giả hỏi, sao không có thị giả? Tất cả chúng ma và ngoại đạo đều là thị giả của tôi. Vì cớ sao? Chúng ma ưa sanh tử, Bồ-tát đối với sanh tử chẳng bỏ. Ngoại đạo thì ưa các kiến chấp, Bồ-tát đối các kiến chấp chẳng động.

Ngài Văn-thù hỏi: - Bệnh của cư sĩ tướng trạng thế nào?

Ông Duy-ma-cật đáp: - Bệnh tôi không hình tướng không thể thấy.

Lại hỏi: - Bệnh này hợp với thân chăng? Hợp với tâm chăng?

Đáp: - Không hợp với thân vì lìa thân tướng, cũng chẳng hợp với tâm, vì tâm như huyễn.

Lại hỏi: - Địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, nơi tứ đại này thì đại nào bệnh?

Đáp: - Bệnh ấy không phải địa đại cũng chẳng lìa địa đại; thủy, hỏa, phong đại cũng lại như thế. Các chúng sanh bệnh là từ tứ đại khởi, vì chúng sanh có bệnh thế nên tôi bệnh.

Khi ấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi ông Duy- ma-cật:

- Bồ-tát nên làm thế nào để an ủi những vị Bồ-tát bệnh?

Ông Duy-ma-cật mới nói:

- Nói thân vô thường mà không nói chán lìa thân. Nói thân có khổ mà không nói ưa Niết-bàn. Nói thân là vô ngã mà nói pháp để giáo hóa chúng sanh. Nói thân không tịch, không nói cứu cánh tịch diệt. Nói ăn năn những lỗi trước mà không nói vào quá khứ. Do mình bệnh nên thương những người khác bệnh. Phải biết cái khổ vô số kiếp đời trước mà nhớ nghĩ lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nhớ việc tu phước, nghĩ đến sự sống trong sạch, chớ sanh buồn phiền, thường khởi tinh tấn. Phải làm vị y vương để trị bệnh cho tất cả chúng sanh. Bồ-tát nên như thế mà an ủi những Bồ-tát có bệnh, khiến cho những vị này được hoan hỷ.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Này cư sĩ, Bồ-tát có bệnh thì làm sao mà điều phục tâm kia?

Ông Duy-ma-cật đáp:

- Bồ-tát có bệnh nên khởi nghĩ thế này: "Nay ta bệnh đây đều là từ đời trước vọng tưởng điên đảo các phiền não sanh, không có một pháp thật thì ai nhận bệnh! Vì cớ sao? Vì tứ đại hợp nên giả danh là thân, tứ đại không chủ thì thân cũng vô ngã, lại bệnh này khởi đều do chấp ngã. Thế nên, đối với ngã không nên sanh chấp trước.” Đã biết gốc bệnh tức trừ ngã tưởng và chúng sanh tưởng. Phải khởi pháp tưởng, nên khởi nghĩ thế này: “Chỉ do các pháp hợp thành thân này. Khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Lại pháp này mỗi pháp không biết nhau, khi khởi không nói ngã khởi, khi diệt không nói ngã diệt.” Những vị Bồ-tát có bệnh kia vì diệt pháp tưởng nên phải khởi nghĩ thế này: “Pháp tưởng này cũng là điên đảo, điên đảo đó tức là đại họa, ta phải lìa nó.” Thế nào là lìa? Lìa ngã, ngã sở. Thế nào là lìa ngã, ngã sở? Nghĩa là lìa hai pháp. Thế nào là lìa hai pháp? Nghĩa là không nghĩ các pháp trong ngoài, thực hành bình đẳng. Thế nào là bình đẳng? Nghĩa là ngã bình đẳng, Niết-bàn bình đẳng. Vì cớ sao? Vì ngã và Niết-bàn cả hai đều không. Vì sao lại không? Chỉ vì danh tự nên không. Như thế hai pháp này không có tánh quyết định. Được bình đẳng như thế thì không có các bệnh khác, chỉ có bệnh không; bệnh không cũng không. Bồ-tát có bệnh này do không chỗ thọ mà thọ các thọ, chưa đủ Phật pháp, cũng chẳng diệt thọ mà thủ chứng. Dù thân có khổ, nghĩ đến chúng sanh trong đường ác mà khởi tâm đại bi, ta đã điều phục cũng sẽ điều phục tất cả chúng sanh. Chỉ trừ bệnh kia mà không trừ pháp, vì đoạn gốc bệnh mà giáo hóa họ. Sao gọi là gốc bệnh? Nghĩa là có phan duyên, từ có phan duyên ắt là gốc bệnh. Sao gọi là phan duyên? Nghĩa là tam giới. Làm sao đoạn phan duyên? Dùng vô sở đắc, nếu vô sở đắc thì không có phan duyên. Sao gọi là vô sở đắc? Nghĩa là lìa hai kiến chấp. Sao gọi là hai kiến chấp? Nghĩa là kiến chấp bên trong, kiến chấp bên ngoài, ấy là vô sở đắc. Văn-thù-sư-lợi, ấy là Bồ-tát có bệnh dùng tâm kia để mà điều phục, vì đoạn khổ già bệnh chết, ấy là Bồ-đề của Bồ-tát. Nếu không như thế thì chỗ tu trị của mình không có trí tuệ bén nhạy. Thí như thắng được kẻ thù mới gọi là dũng sĩ. Như thế trừ hết già bệnh chết mới gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát có bệnh kia nên lại khởi nghĩ như thế này: “Như bệnh của ta đây chẳng phải thật, chẳng phải có, bệnh của chúng sanh cũng chẳng phải thật, cũng chẳng phải có.” Khi khởi quán như thế đối với các chúng sanh, khởi ái kiến đại bi tức nên xả ly. Vì cớ sao? Bồ-tát đoạn trừ khách trần phiền não mà khởi đại bi. Ái kiến bị đó tức là đối với sanh tử có tâm mệt mỏi nhàm chán. Nếu hay lìa được cái này, không có mệt mỏi nhàm chán, sanh ở chỗ nào cũng không bị ái kiến che lấp. Chỗ sanh không bị trói buộc, hay vì chúng sanh nói pháp mở trói buộc, như lời Phật nói: “Nếu tự có trói buộc mà hay cởi mở cho người khác thì không có lẽ ấy. Nếu tự mình không trói buộc mà hay mở cho người, điều ấy là có được.” Do đó Bồ-tát không nên khởi trói buộc. Sao gọi là trói? Sao gọi là mở? Tham trước thiền vị, ấy là Bồ-tát bị trói; vì phương tiện sanh, ấy là Bồ-tát mở. Lại không có phương tiện tuệ là bị trói, có phương tiện tuệ gọi là mở; không có tuệ phương tiện là trói, có tuệ phương tiện là mở. Sao gọi không có phương tiện tuệ bị trói? Nghĩa là Bồ-tát do tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu cho chúng sanh, đối với các pháp Không, vô tướng, vô tác mà tự điều phục, ấy gọi là không phương tiện tuệ bị trói. Sao gọi là có phương tiện tuệ mở? Nghĩa là không do tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh, đối trong ba pháp Không, vô tướng, vô tác, tự điều phục mà không mệt mỏi nhàm chán, ấy gọi là có phương tiện tuệ mở. Sao gọi là không có tuệ phương tiện bị trói? Nghĩa là Bồ-tát trụ nơi các thứ phiền não tham dục, sân nhuế, tà kiến... mà gieo trồng các cội công đức, ấy gọi là không có tuệ phương tiện bị trói. Sao gọi là có tuệ phương tiện mở? Nghĩa là lìa các thứ phiền não tham dục, sân nhuế, tà kiến... mà gieo trồng các cội công đức, hồi hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ấy gọi là có tuệ phương tiện mở.

Văn-thù-sư-lợi, những vị Bồ-tát có bệnh kia nên quán các pháp như thế. Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, phi ngã, ấy gọi là tuệ. Tuy thân có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả chúng sanh không biết chán mỏi, ấy gọi là phương tiện. Lại nữa quán thân, thân chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng lìa thân, bệnh ấy thân ấy không phải mới không phải cũ, ấy gọi là tuệ. Dù thân có bệnh mà không hằng diệt, ấy gọi là phương tiện.

Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm kia, chẳng trụ ở trong ấy cũng lại chẳng trụ chẳng điều phục tâm. Vì cớ sao? Nếu trụ chẳng điều phục tâm, ấy là pháp của người ngu; còn nếu trụ ở điều phục tâm, ấy là pháp của Thanh văn. Vì thế Bồ-tát không nên trụ ở nơi điều phục và chẳng điều phục tâm, lìa hai pháp này, ấy gọi là hạnh Bồ-tát. Ở trong sanh tử không làm những hạnh ô uế, trụ nơi Niết-bàn mà không hằng diệt độ, ấy là hạnh Bồ-tát. Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh hiền thánh, ấy là hạnh Bồ-tát. Chẳng phải hạnh cấu, chẳng phải hạnh tịnh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy vượt qua hạnh ma mà hiện hàng phục chúng ma, ấy là hạnh Bồ-tát. Cầu nhất thiết trí, không cầu phi thời, ấy là hạnh Bồ-tát.

Tuy quán các pháp chẳng sanh mà chẳng nhập chánh vị, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy quán mười hai nhân duyên khởi, mà vào các tà kiến, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy nhiếp phục tất cả chúng sanh mà không ái trước, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy ưa xa lìa mà không hoàn toàn y nơi diệt thân tâm, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy đi trong tam giới mà không hoại pháp tánh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành nơi Không mà gieo trồng các cội công đức, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành vô tướng mà độ chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả hạnh lành, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành lục ba-la-mật mà khắp biết tâm vương tâm sở của chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành lục thông mà không có tận lậu, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành tứ vô lượng tâm mà không tham trước sanh ở cõi trời Phạm thiên, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành thiền định giải thoát tam-muội mà không sanh theo cõi Thiền, ấy là hạnh của Bồ-tát. Tuy hành tứ niệm xứ mà không hằng lìa thân thọ tâm pháp, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành tứ chánh cần mà không xả thân tâm tinh tấn, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành tứ như ý túc mà được tự tại thần thông, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành ngũ căn mà phân biệt các căn lợi độn của chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành ngũ lực mà ưa cầu thập lực của Phật, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành thất giác phần mà phân biệt trí tuệ Phật, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành bát chánh đạo mà ưa hành vô lượng Phật đạo, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành pháp chỉ quán trợ đạo mà cứu cánh không rơi vào tịch diệt, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân kia, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hiện oai nghi Thanh văn Bích-chi Phật mà không xả Phật pháp, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy tùy tướng thanh tịnh cứu cánh của các pháp mà tùy sở ứng để hiện thân kia, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy quán cõi nước chư Phật hằng tịch như không mà hiện các cõi Phật thanh tịnh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy được Phật đạo chuyển pháp luân vào Niết-bàn mà không bỏ đạo Bồ-tát, ấy là hạnh Bồ-tát.

Khi nói lời ấy rồi, đại chúng đi theo ngài Văn-thù-sư-lợi, trong đó tám ngàn vị thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Giảng:

Khi ấy Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi:

- Ông đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Bậc thượng nhân kia khó mà đối đáp được vì đã thâm đạt được thật tướng, khéo nói pháp yếu, biện tài thông suốt, trí tuệ vô ngại, tất cả các pháp thức của Bồ-tát thảy đều biết hết, những bí tàng của chư Phật không chỗ nào mà chẳng nhập, hàng phục các chúng ma và được thần thông du hý, trí tuệ phương tiện kia đều đã vượt qua. Tuy nhiên con xin vâng thánh chỉ của Phật đến thăm bệnh ông.

Trước khi vâng lời Phật dạy đến thăm cư sĩ Duy-ma-cật, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hết lời tán thán ông là người đã thâm nhập thật tướng của các pháp, lại khéo giảng pháp yếu cho người nghe. Ông có đủ biện tài không chướng ngại, trí tuệ không gì ngăn trở, thông suốt tất cả những pháp thức của Bồ-tát, vào được kho bí mật của chư Phật, hàng phục tất cả ma, được thần thông du hý và trí tuệ phương tiện... Tất cả những điều ông đạt được thật đáng kính nể. Ngài Văn-thù là bậc thượng thủ trong chúng hội của Phật, mà không nhận lời thì còn ai có thể đi thăm nữa! Vì vậy đến đây ngài Văn-thù phải chấp nhận.

Khi đó ở trong chúng hội, các vị Bồ-tát và các vị đại đệ tử, trời Đế-thích, Phạm thiên, Tứ thiên vương đều khởi nghĩ thế này: “Nay hai vị đại sĩ là Văn-thù- sư-lợi và Duy-ma-cật cùng luận đàm với nhau, ắt là nói diệu pháp.” Liền khi ấy tám ngàn vị Bồ-tát, năm trăm vị Thanh văn, trăm ngàn vị thiên nhân đều muốn đi theo.

Bấy giờ ngài Văn-thù-sư-lợi cùng các Bồ-tát, các vị đại đệ tử và chư thiên nhân cung kính đi nhiễu để vào đại thành Tỳ-da-ly.

Chúng ta bây giờ cũng vậy, khi nghe những vị có uy tín, có tiếng tăm đàm luận với nhau thì muốn đi nghe thử xem quý vị luận bàn việc gì. Ở đây số người đi theo Bồ-tát Văn-thù rất đông, nhưng thất cư sĩ Duy-ma-cật quá nhỏ, làm sao chứa được tám ngàn vị Bồ-tát, năm trăm vị Thanh văn, trăm ngàn vị thiên nhân, vậy mà vẫn dung được hết. Đó là điều đặc biệt.

Lúc ấy trưởng giả Duy-ma-cật thầm nghĩ: “Nay Văn-thù-sư-lợi cùng với đại chúng đồng đến!” Ông liền dùng thần lực làm cho trong thất trống rỗng, dẹp hết đồ đạc và các thị giả, chỉ để một giường bệnh mà nằm.

Tuy bệnh nằm trong thất nhưng cư sĩ Duy-ma-cật vẫn biết Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng đại chúng sẽ đến thăm. Ông liền dùng thần lực dẹp hết đồ đạc và thị giả, làm cho thất trống, chỉ còn lại một cái giường để ông nằm. Chỗ này nghĩa lý rất sâu xa. Thất của cư sĩ Duy-ma-cật là chỉ cho tâm của tất cả chúng sanh hay của chư Bồ-tát. Tâm đó muốn được đầy đủ tuệ giác thì phải dẹp tất cả mọi vọng tưởng, còn một giường nằm bệnh là chỉ cho phương tiện độ sanh.

Ngài Văn-thù-sư-lợi đã vào trong nhà ông Duy- ma-cật, thấy thất trống rỗng không có vật gì, chỉ có một mình ông nằm trên giường. Khi ấy ông Duy-ma-cật nói:

- Lành thay, Văn-thù-sư-lợi! Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.

Ngài Văn-thù liền đáp:

- Như thế, cư sĩ! Nếu đã đến lại chẳng đến, nếu đã đi lại chẳng đi. Vì cớ sao? Đến không từ đâu đến, đi không có chỗ đến, chỗ có thể thấy càng không thể thấy.

Thường chúng ta gặp nhau thì chào anh mới đến, mới đến đó là tướng đến. Nếu nói thật có đến là phàm phu, còn theo tinh thần Bồ-tát, thấy có đến mà không thật đến, có đi mà không thật đi. Gặp nhau là thấy, mà thấy cũng không thật thấy. Ở đây hai bậc thượng thủ này vừa gặp nhau chào hỏi một câu nghe thật tẻ lạnh: Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy! Trong luận Trung Quán, Bồ-tát Long Thọ nói, không có đến thật, không có đi thật, nhưng có giả tướng đến, giả tướng đi. Như vậy tướng thật không đến nhưng giả tướng thì có đến, tướng thật không thấy nhưng giả tướng thì có thấy. Chính vì vậy mà ngài Văn-thù mới đáp lại rằng: Đúng như thế, cư sĩ! Nếu đã đến lại chẳng đến, nếu đã đi lại chẳng đi. Vì cớ sao? Vì người đến không từ đâu đến, người đi không đi về đâu. Vì vậy tìm cái đến cái đi thật không có. Chỗ có thể thấy càng không thể thấy. Cho nên nói tướng thấy thì không thấy. Hai ngài gặp nhau, lý sự một chút rồi trở lại thực tế. Bồ-tát Văn-thù nói:

Hãy gác việc đó lại. Cư sĩ, bệnh ông có thể chịu nổi chăng? Điều trị có bớt hay không, không đến nỗi tăng chứ? Thế Tôn rất ân cần thăm hỏi ông. Tôi đến thăm bệnh ông mà nói chuyện xa vời quá, thôi hãy gác chuyện đó lại đi. Bây giờ thật tình mà hỏi, bệnh ông có nặng lắm không? Có chịu nổi không? Ông trị liệu có giảm bớt hay tăng? Thế Tôn rất ân cần thăm hỏi ông.

Này cư sĩ! Bệnh ấy do nhân gì mà khởi? Bệnh sanh đã lâu chưa? Làm sao để hết bệnh? Đó là ba câu hỏi để cư sĩ Duy-ma-cật trả lời. Câu hỏi thứ nhất là nhân duyên gì mà sanh bệnh? Câu hỏi thứ hai, bệnh đó đã lâu chưa? Câu hỏi thứ ba, làm sao cho hết bệnh?

Ông Duy-ma-cật nói:

Từ si có ái, ắt là bệnh tôi sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh, thế nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh hết bệnh thì bệnh tôi cũng dứt. Ông trả lời câu đầu nguyên nhân bệnh là do si ái sanh ra. Câu thứ hai là tất cả chúng sanh có bệnh thì tôi có bệnh, không biết bao lâu. Câu thứ ba, chừng nào chúng sanh hết bệnh thì chừng đó tôi lành bệnh. Như vậy ông đã trả lời hết ba câu hỏi.

Vì cớ sao? Bồ-tát vì chúng sanh nên vào sanh tử, có sanh tử ắt có bệnh. Nếu chúng sanh được lìa bệnh thì Bồ-tát cũng không bệnh. Ông giải thích Bồ-tát vì chúng sanh mà vào trong sanh tử. Chúng sanh do si ái nên có sanh tử, có sanh tử thì có bệnh. Ông với tâm hạnh từ bi của Bồ-tát, thương chúng sanh nên vào trong sanh tử. Nếu chúng sanh hết sanh tử thì Bồ-tát đâu còn vào trong sanh tử nữa. Chúng sanh hết bệnh thì Bồ-tát cũng hết bệnh.

Ví như ông trưởng giả chỉ có một đứa con, đứa con kia bị bệnh thì cha mẹ cũng bệnh. Nếu đứa con hết bệnh thì cha mẹ cũng khỏi. Bồ-tát cũng như thế, đối với chúng sanh yêu mến như con. Chúng sanh bệnh thì Bồ-tát bệnh, chúng sanh lành bệnh thì Bồ-tát cũng lành bệnh. Lại nói bệnh ấy từ nhân duyên nào mà khởi, Bồ-tát bệnh đó là do lòng đại bi mà khởi.

Chúng sanh đang lăn lộn trong sanh tử gọi là bệnh. Bồ-tát vào trong sanh tử để độ chúng sanh, nên gọi là Bồ-tát bệnh. Bệnh đó là do lòng đại bi, chứ không phải do tứ đại bất hòa, không phải do phiền não mà bệnh. Bồ-tát thương chúng sanh như thương con. Những đứa con khôn ngoan cũng thương mà mừng, nó sẽ mau tỉnh; những đứa ngu ngốc cũng thương mà tội nghiệp, không biết chừng nào nó tỉnh! Thương hết không ghét đứa nào. Nếu có tâm ghét là tâm chúng sanh, còn thật tâm Bồ-tát thì người hay cũng thương, người dở cũng thương, không bỏ sót một ai.

Chúng ta kiểm lại xem mình là tâm Bồ-tát hay tâm chúng sanh? Dễ thấy quá. Dù người gây khó khăn cho mình, mình cũng thấy dễ thương, đó là tâm của Bồ-tát.

Ngài Văn-thù-sư-lợi hỏi:

- Này cư sĩ, thất này vì sao trống không không có thị giả?

Ông Duy-ma-cật nói:

- Cõi nước của chư Phật cũng đều trống không.

Lại hỏi: - Lấy gì làm không?

Đáp rằng: - Lấy không làm không.

Lại hỏi: - Không đâu cần không?

Đáp: - Do không phân biệt không, nên không.

Lại hỏi: - Không có thể phân biệt được sao?

Đáp: - Phân biệt cũng không.

Lại hỏi: - Cái không ấy phải cầu ở đâu?

Đáp: - Ở trong sáu mươi hai kiến chấp mà cầu.

Lại hỏi: - Sáu mươi hai kiến chấp phải cầu ở đâu?

Đáp: - Phải ở trong giải thoát của chư Phật mà cầu.

Lại hỏi: - Giải thoát của chư Phật phải cầu ở đâu?

Đáp: - Phải cầu ở trong tất cả tâm hạnh chúng sanh. Lại nhân giả hỏi, sao không có thị giả? Tất cả chúng ma và ngoại đạo đều là thị giả của tôi. Vì cớ sao? Chúng ma ưa sanh tử, Bồ-tát đối với sanh tử chẳng bỏ. Ngoại đạo thì ưa các kiến chấp, Bồ-tát đối các kiến chấp chẳng động.

Đoạn lý luận này nghe rất thâm thúy. Bồ-tát Văn-thù hỏi tại sao trong thất của ông trống không, không có thị giả. Cư sĩ Duy-ma-cật đáp chẳng những thất tôi mà thất của chư Phật cũng đều trống không. Tại sao cõi nước chư Phật cũng đều trống không? Bởi vì tất cả cõi chư Phật đều không có mọi kiến chấp, không có mọi phân biệt mới được thành Phật, mới được giác ngộ. Cho nên nói cõi chư Phật cũng là không. Hỏi thế nào là không? Đáp: Bởi không nên không. Nghe thật khó hiểu! Lại hỏi thêm: Đã không thì đâu cần không mà nói do không nên không? Đáp: Do không phân biệt không, nên không. Cái không này cần phải hiểu cho thật rõ, cái không ban đầu là không của nội tâm, do tâm không phân biệt nên nói tâm không. Như bài kệ tụng của ông Bàng Uẩn:

Thử thị tuyển Phật trường, 

Tâm không cập đệ quy.

Nghĩa là:

Đây là trường thi Phật, 

Tâm không được đậu về.

Tâm không là đối trước ngoại cảnh mà không dấy khởi niệm phân biệt, không phân biệt thì ngoại cảnh cũng thành không, nên nói do không mà không. Vì vậy mà gọi là không không. Bồ-tát lại hỏi: Không có thể phân biệt chăng? Đáp: Phân biệt cũng không. Đã không thì còn gì phân biệt, không phân biệt nên nói không cũng là không. Như vậy cả hai đều không.

Lại hỏi cái không đó từ đâu mà tìm? Tức là tìm lý do để thấy không tất cả phân biệt. Ở đây nói, phải từ sáu mươi hai kiến chấp mà tìm. Nghĩa là còn nằm trong một kiến chấp nào thì chưa phải không. Trong sáu mươi hai kiến chấp, không động không dính ấy gọi là không. Sáu mươi hai kiến chấp tìm từ đâu? Đáp: Từ trong pháp giải thoát của chư Phật. Muốn dứt sáu mươi hai kiến chấp thì ngay trong pháp giải thoát của Phật mà dứt, chứ không đâu xa hết.

Chúng ta ai cũng quý trọng pháp giải thoát của Phật. Hỏi pháp giải thoát của Phật từ đâu mà tìm? Từ nơi tâm hạnh của tất cả chúng sanh. Tâm hạnh mình có pháp giải thoát của Phật không? Nếu mắt thấy sắc mà không dính với sắc, tai nghe tiếng mà không mắc kẹt tiếng... cho đến tâm duyên với pháp trần mà không dính với pháp trần, đó là pháp giải thoát của Phật. Như vậy tất cả pháp giải thoát không ở bên ngoài mà từ tâm hạnh của chúng ta. Chúng ta biết tu, biết gỡ mọi dính mắc thì được giải thoát, chứ không tìm giải thoát ở đâu xa.

Hỏi tại sao không có thị giả? Đáp: Tất cả chúng ma và ngoại đạo là thị giả của tôi. Tại sao? Vì chúng ma ưa sanh tử nên dẫn người đi trong sanh tử, còn Bồ-tát đối với sanh tử không bỏ, lao mình trong sanh tử, cùng chúng ma làm bạn để độ chúng ma, nên nói chúng ma là thị giả của tôi. Ngoại đạo ưa các kiến chấp, Bồ-tát đối với các kiến chấp không động. Nghĩa là đối với sáu mươi hai kiến chấp, Bồ-tát không bỏ dẹp cũng không dính mắc, gọi là không động. Không động cho nên gần được với chúng ngoại đạo, vì vậy nói ngoại đạo là thị giả của tôi.

Ngài Văn-thù hỏi: Bệnh của cư sĩ tướng trạng thế nào?

Ông Duy-ma-cật đáp: Bệnh tôi không hình tướng, không thể thấy. Thí dụ nói tôi nhức đầu, tôi đau bụng... thì đó là có tướng bệnh. Ông Duy-ma-cật trả lời bệnh tôi không có tướng, không thể thấy được.

Lại hỏi: Bệnh này hợp với thân chăng? Hợp với tâm chăng?

Đáp: Không hợp với thân vì lìa thân tướng, cũng chẳng hợp với tâm vì tâm như huyễn. Bệnh đó không hợp với thân cũng không hợp với tâm. Vì thân đã lìa thân tướng, tâm đã thấy như huyễn.

Lại hỏi: Địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, nơi tứ đại này thì đại nào bệnh?

Đáp: Bệnh ấy không phải địa đại cũng chẳng lìa địa đại; thủy, hỏa, phong đại cũng lại như thế. Các chúng sanh bệnh là từ tứ đại khởi, vì chúng sanh có bệnh thế nên tôi bệnh.

Đất, nước, gió, lửa vốn không bệnh, nhưng hợp lại thành thân mới sanh ra bệnh. Đối với ông, tứ đại không có bệnh, còn chúng sanh chấp tứ đại là thật nên thấy có bệnh. Tứ đại có bệnh nên Bồ-tát cũng bệnh, là để nói bệnh của ông từ nơi chúng sanh mà có. Thế nên nói vì chúng sanh có bệnh nên tôi bệnh.

Khi ấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi ông Duy-ma-cật:

- Bồ-tát nên làm thế nào để an ủi những vị Bồ-tát bệnh?

Ông Duy-ma-cật mới nói:

- Nói thân vô thường mà không nói chán lìa thân. Nói thân có khổ mà không nói ưa Niết-bàn. Nói thân là vô ngã mà nói pháp để giáo hóa chúng sanh. Nói thân không tịch, không nói cứu cánh tịch diệt. Nói ăn năn những lỗi trước mà không nói vào quá khứ. Do mình bệnh nên thương những người khác bệnh. Phải biết cái khổ vô số kiếp đời trước mà nhớ nghĩ lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nhớ việc tu phước, nghĩ đến sự sống trong sạch, chớ sanh buồn phiền, thường khởi tinh tấn. Phải làm vị y vương để trị bệnh cho tất cả chúng sanh. Bồ-tát nên như thế mà an ủi những Bồ-tát có bệnh, khiến cho những vị này được hoan hỷ.

Như có vị Bồ-tát bệnh, Bồ-tát khác tới thăm thì phải làm sao để an ủi? Trước hết ông nhắc, thân này là vô thường. Thanh văn thấy thân vô thường thì chán, nhưng Bồ-tát thấy thân vô thường mà không chán lìa thân. Tại sao? Nếu chán lìa thân thì làm sao vào sanh tử độ chúng sanh được. Thanh văn thấy thân là khổ nên cầu Niết-bàn an vui. Bồ-tát không cầu Niết-bàn vì thương chúng sanh, nếu vào Niết-bàn thì đâu cứu độ chúng sanh được. Nói thân vô ngã là không có ta thật mà luôn luôn nói pháp giáo hóa chúng sanh. Nói rỗng lặng nhưng không phải hoàn toàn rỗng không. Nói ăn năn những lỗi trước mà không nói vào quá khứ, nghĩa là không chấp có quá khứ thật. Nếu có quá khứ thật là chấp nhận ba thời thật sao! Đó là điểm đặc biệt của Bồ-tát.

Do mình bệnh nên thương những người khác bệnh. Chúng ta phải học câu này cho thấm. Khi mình bệnh thân thể bị hành hạ nhức nhối, phải chịu đau đớn khổ sở thế nào, nghĩ tới người khác bệnh, phải thương xót họ như lúc mình đang bệnh. Được vậy thì thế gian này đỡ khổ biết bao. Còn nếu thấy người bệnh mà ngó lơ, không chút quan tâm thì thật vô tình vô nghĩa, không có sự cảm thông giữa mình với người.

Phải biết cái khổ vô số kiếp đời trước mà nhớ nghĩ lợi ích cho tất cả chúng sanh. Phải nhớ rằng chúng ta từ trước tới giờ sanh ra chết đi không biết bao nhiêu kiếp, chịu biết bao nhiêu khổ, vậy nên thương chúng sanh còn đang chìm đắm, phải ráng tu, ráng giải thoát, khéo dùng phương tiện, phát tâm độ họ thoát ly các khổ. Đừng nghĩ mình đã được giác, đã có khả năng thoát ly khổ sanh tử mà không thương chúng sanh thì không được.

Nhớ việc tu phước, nghĩ đến sự sống trong sạch, chớ sanh buồn phiền, thường khởi tinh tấn. Chúng ta được đầy đủ phúc duyên, sớm gặp Phật pháp, là do đời trước đã có tu, đã gieo trồng căn lành, thật đáng mừng. Vì vậy phải cố gắng tinh tấn tu hành, ráng sống đời sống thanh tịnh. Nhất là người mới mười lăm mười bảy tuổi mà phát tâm vào đạo là càng mừng hơn, vì biết mình có phước hơn những người khác. Phải vui mừng vì túc duyên lành, sao lại buồn chán? Buồn chán là tâm niệm rất xấu, là phủi bỏ những công lao tu tạo trước của mình. Được vậy thì niệm tu hành đạo đức mới sâu dày.

Làm vị y vương để trị bệnh cho tất cả chúng sanh. Nghĩa là dùng Phật pháp làm thuốc để trị tâm bệnh cho tất cả chúng sanh. Phát khởi tâm niệm mạnh mẽ như vậy mới là hạnh nguyện Bồ-tát.

Trên đây là những điều cư sĩ Duy-ma-cật đã trả lời câu hỏi của Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát phải nên an ủi những Bồ-tát bệnh như thế nào, khiến cho những vị này được hoan hỷ. Chúng ta cũng vậy, khi đến thăm viếng an ủi người bệnh, chỉ dùng những lời đạo lý để nhắc nhở nhau, chớ theo thường tình. Phải học theo gương cao thượng của Bồ-tát, mới xứng đáng là người tu.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Này cư sĩ, Bồ-tát có bệnh thì làm sao mà điều phục tâm kia?

Ông Duy-ma-cật đáp:

- Bồ-tát có bệnh nên khởi nghĩ thế này: “Nay ta bệnh đây đều là từ đời trước vọng tưởng điên đảo các phiền não sanh, không có một pháp thật thì ai nhận bệnh! Vì cớ sao? Vì tứ đại hợp nên giả danh là thân, tứ đại không chủ thì thân cũng vô ngã, lại bệnh này khởi đều do chấp ngã. Thế nên, đối với ngã không nên sanh chấp trước.”

Từ vô số kiếp đời trước do vọng tưởng điên đảo nên phát khởi các thứ phiền não, nhân đó sanh ra bệnh. Vọng tưởng phiền não vốn không thật, đã không thật thì bệnh đâu có thật. Cho nên không có pháp thật, bệnh thật. Lúc đau bụng, đau đầu... cũng không có cái đau thật thì rên khóc làm gì? Vậy bệnh từ đâu khởi, nó hành hạ ra sao mặc kệ, đừng để ý lệ thuộc vào nó. Như vậy đã biết trọng tâm phát khởi bệnh là không thật thì ai là người chịu bệnh, ai là người đang đau? Thế nên, thấy các thứ không thật thì tự nhiên bệnh không thật. Thân này do tứ đại hợp, giả danh tạm gọi là thân, tứ đại không chủ thì thân cũng vô ngã. Bệnh sanh là do chấp ngã vì vậy đối với ngã không nên sanh chấp trước.

Đã biết gốc bệnh tức trừ ngã tưởng và chúng sanh tưởng. Phải khởi pháp tưởng, nên khởi nghĩ thế này: “Chỉ do các pháp hợp thành thân này. Khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Lại pháp này mỗi pháp không biết nhau, khi khởi không nói ngã khởi, khi diệt không nói ngã diệt.”

Biết gốc bệnh là do chấp ngã, vì vậy phải trừ ngã tưởng và chúng sanh tưởng. Ngã tưởng là tưởng mình thật, chúng sanh tưởng là tưởng người thật. Khởi pháp tưởng là nên khởi nghĩ thế này: Chỉ do các pháp hợp thành thân này. Khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Khi tứ đại hợp thì thân này sanh, tứ đại rã thì thân này hoại. Hợp tan là chuyện của pháp, chứ đâu phải chuyện của mình.

Lại pháp này mỗi pháp không biết nhau, khi khởi không nói ngã khởi, khi diệt không nói ngã diệt. Tứ đại khi hợp lại cũng không nói chúng ta cùng nhau hợp, khi tan cũng không nói chúng ta cùng nhau đi. Tự nó đến tự nó đi, còn mình không biết gì hết, như vậy nó đâu dính gì với mình, còn gì phải lo sợ.

Những vị Bồ-tát có bệnh kia vì diệt pháp tưởng nên phải khởi nghĩ thế này: “Pháp tưởng này cũng là điên đảo, điên đảo đó tức là đại họa, ta phải lìa nó.” Bồ-tát khởi diệt trừ pháp tưởng phải nên khởi nghĩ pháp tưởng này cũng là điên đảo. Như vậy ban đầu bỏ chúng sanh tưởng, ngã tưởng mà khởi pháp tưởng. Kế đó khởi pháp tưởng hợp tan không thật. Cuối cùng pháp tưởng cũng phải bỏ luôn. Như vậy mới rốt ráo.

Thế nào là lìa? Lìa ngã, ngã sở. Thế nào là lìa ngã, ngã sở? Nghĩa là lìa hai pháp. Thế nào là lìa hai pháp? Nghĩa là không nghĩ các pháp trong ngoài, thực hành bình đẳng. Thế nào là bình đẳng? Nghĩa là ngã bình đẳng, Niết-bàn bình đẳng. Vì cớ sao? Vì ngã và Niết-bàn cả hai đều không. Vì sao lại không? Chỉ vì danh tự nên không. Như thế hai pháp này không có tánh quyết định.

Chúng ta thường nghe nói Niết-bàn là chỗ không sanh tử, còn ngã là tướng sanh tử khổ. Niết-bàn không sanh tử nên an vui. Bây giờ khởi tâm bình đẳng, không thấy trong không thấy ngoài. Không dính ngã cũng không kẹt Niết-bàn, nghĩa là không còn dính kẹt ngã và pháp, cả hai đều thấy như nhau, không có tâm thiên lệch. Ngã và Niết-bàn đều không, sanh tử không thật Niết-bàn cũng không thật, chỉ là giả danh. Đến chỗ cứu cánh không còn những danh tự đó nữa.

Được bình đẳng như thế thì không có các bệnh khác, chỉ có bệnh không; bệnh không cũng không. Bồ-tát có bệnh này do không chỗ thọ mà thọ các thọ, chưa đủ Phật pháp, cũng chẳng diệt thọ mà thủ chứng. Bồ-tát bệnh mà không nhận tất cả những bệnh, tuy không nhận mà vẫn còn có cái nhận. Tại sao? Thấy mình chưa đầy đủ công đức độ sanh, thì còn phải thọ thân trong sanh tử để cứu độ chúng sanh, không vì không thọ mà nhập Niết-bàn. Thế nên nói, không thọ mà thọ các thọ.

Dù thân có khổ, nghĩ đến chúng sanh trong đường ác mà khởi tâm đại bi, ta đã điều phục cũng sẽ điều phục tất cả chúng sanh. Chỉ trừ bệnh kia mà không trừ pháp, vì đoạn gốc bệnh mà giáo hóa họ.

Bồ-tát dù thân đang bệnh đau đớn khổ sở mà vẫn nhớ những chúng sanh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh phải chịu đau khổ gấp mấy ngàn lần mình. Do nghĩ như vậy nên Bồ-tát khởi tâm thương xót mà quên bệnh của mình, cố gắng tự điều phục và điều phục chúng sanh trong ba đường ác.

Chỉ trừ bệnh kia mà không trừ pháp. Thân chúng ta là do năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức hợp thành. Chấp năm uẩn là mình là chấp ngã. Vì chấp ngã nên có khổ có vui, đó là bệnh. Như vậy đối với thân năm uẩn này, chúng ta chỉ phá bệnh chấp ngã chứ không phá năm uẩn. Nên nói trừ bệnh mà không trừ pháp, vì muốn đoạn gốc bệnh là gốc sanh tử cho chúng sanh, mới dạy dỗ họ. Bồ-tát lúc nào cũng nghĩ tới chúng sanh nhiều hơn là bản thân mình. Dù đang bệnh khổ mà không nghĩ đến bệnh của mình, chỉ nhớ làm sao dạy bảo cho mọi người hết được gốc bệnh, tức là hết được gốc sanh tử.

Sao gọi là gốc bệnh? Nghĩa là có phan duyên, từ có phan duyên ắt là gốc bệnh. Sao gọi là phan duyên? Nghĩa là tam giới.

Phan duyên tức là đuổi theo, nắm bắt, buông cái này chụp cái kia. Tâm mãi đuổi theo ngoại cảnh, chạy theo sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp, đó là tâm phan duyên. Chính tâm phan duyên tạo thành nghiệp mà có thân này, là gốc của bệnh. Phan duyên ở đây là đuổi theo nắm bắt những cảnh trong Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Thí dụ những người tâm duyên tưởng theo các định Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền v.v... nếu ngang đó mà chết thì sanh vào cõi trời Sắc giới, đó gọi là phan duyên cõi trời Sắc giới. Những người đuổi theo các định Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ v.v... khi chết thì sanh vào cõi trời Vô sắc giới, đó gọi là phan duyên Vô sắc giới. Hiện nay chúng ta đang ở trong cõi Dục giới mà còn nắm bắt không ngừng, tâm ý chạy tứ tung không kìm nổi, huống nữa là cõi trời Sắc giới, Vô sắc giới. Như vậy sở dĩ mình có thân là vì tâm phan duyên theo cảnh trong tam giới.

Làm sao đoạn phan duyên? Dùng vô sở đắc, nếu vô sở đắc thì không có phan duyên. Muốn dứt tâm phan duyên thì phải thấy tất cả pháp đều không thật. Những được mất hơn thua... chỉ là tạm bợ giả dối, có gì đáng mà đuổi theo! Nhưng chúng ta thường đuổi theo sắc, thanh, hương, vị... Như có một huynh đệ tốt bụng luộc ba củ khoai lang, một củ phần mình, hai củ còn lại chia cho hai huynh đệ, trong đó có một củ bị sùng mà không hay biết. Người nhận được củ khoai sùng, nghĩ mình bị huynh đệ đối xử không tốt, trong lòng ôm ấp mãi không vui, nên mỗi khi gặp nhau là nhớ đến chuyện đã qua. Thế đó, chúng ta cứ bám víu, dính mắc bởi những chuyện không đâu, lầm nhận những thứ hư giả không thật cho là thật, nên phải chịu trầm luân muôn kiếp. Hiểu được điều này thì tâm phan duyên dứt, việc tu hết sức rõ ràng.

Sao gọi là vô sở đắc? Nghĩa là lìa hai kiến chấp. Sao gọi là hai kiến chấp? Nghĩa là kiến chấp bên trong, kiến chấp bên ngoài, ấy là vô sở đắc. Kiến chấp bên trong là chấp thân, kiến chấp bên ngoài là chấp cảnh. Sở dĩ thấy có được mất là do chấp thân thật và cảnh ngoài thật. Không chấp thân và cảnh thật thì tất cả đều vô sở đắc.

Tóm lại, phan duyên là chạy theo sáu trần, duyên theo ngoại cảnh. Còn phan duyên tức còn vọng tưởng, mà vọng tưởng là gốc của bệnh. Sở dĩ chúng ta sanh trong lục đạo là từ tâm vọng tưởng chạy theo cảnh, mà cảnh đó không ngoài tam giới. Muốn dứt tâm chạy theo cảnh thì phải vô sở đắc, nghĩa là không chấp nhận một pháp nào thật. Không có năng thì không có sở, trong không có ngã, ngoài không ngã sở, không có một pháp thật thì tâm phan duyên hết. Nếu trong còn chấp thân, ngoài còn chấp cảnh, trong có vọng tưởng, ngoài có sáu trần, đó là thấy hai. Dứt được cái thấy hai tức là vô sở đắc.

Văn-thù-sư-lợi, ấy là Bồ-tát có bệnh dùng tâm kia để mà điều phục, vì đoạn khổ già bệnh chết, ấy là Bồ-đề của Bồ-tát. Nếu không như thế thì chỗ tu trị của mình không có trí tuệ bén nhạy. Thí như thắng được kẻ thù mới gọi là dũng sĩ. Như thế trừ hết già bệnh chết mới gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát có bệnh phải dùng tâm vô sở đắc mà điều phục. Vậy khi Bồ-tát khởi tâm đại bi thương xót chúng sanh thì phải biết gốc bệnh của chúng sanh là gì, rồi theo đó chỉ dạy, để dẹp hết khổ già bệnh chết cho họ. Gốc bệnh là do chấp ngã và ngã sở.

Bồ-tát phải lấy Bồ-đề, giác ngộ của mình để dứt các khổ già bệnh chết. Cũng như người chiến thắng được kẻ thù mới gọi là mạnh, mới gọi là dũng sĩ. Đó là chỗ giác ngộ của Bồ-tát. Khi Bồ-tát bệnh, nếu không có tâm thương xót nghĩ nhớ đến nỗi khổ của chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tìm cách cứu họ ra khỏi sanh tử... thì việc tu sửa của Bồ-tát không có trí tuệ bén nhạy.

Bồ-tát có bệnh kia nên lại khởi nghĩ như thế này: “Như bệnh của ta đây chẳng phải thật, chẳng phải có, bệnh của chúng sanh cũng chẳng phải thật, cũng chẳng phải có.” Khi khởi quán như thế đối với các chúng sanh, khởi ái kiến đại bi tức nên xả ly. Khi Bồ-tát bệnh phải khởi nghĩ, bệnh của ta không phải thật có. Không phải thật có là sao? Vì bệnh là do duyên, đã là duyên sanh thì nó như huyễn như hóa, nên nói không phải thật có. Bệnh chúng sanh cũng lại như thế. Thường chúng ta ai cũng thấy bệnh là thật, là có. Nếu nó là thật thì lúc nào cũng đau, uống thuốc đâu có hết! Nhưng vì nó không thật nên gặp đúng thuốc trị bệnh sẽ dứt chứ đâu còn mãi. Như vậy cái gì khi có khi không, khi còn khi mất thì không phải thật. Quán như thế rồi, đối với chúng sanh nếu có khởi ái kiến đại bi thì nên xả bỏ.

Vì cớ sao? Bồ-tát đoạn trừ khách trần phiền não mà khởi đại bi. Ái kiến bị đó tức là đối với sanh tử có tâm mệt mỏi nhàm chán. Nếu hay lìa được cái này, không có mệt mỏi nhàm chán, sanh ở chỗ nào cũng không bị ái kiến che lấp.

Khách trần phiền não nghĩa là sao? Theo kinh Lăng-nghiêm, có người tới nhà người khác xin ở trọ một đêm rồi sáng ra đi. Người đó gọi là khách. Còn người ở trong nhà không đi đâu, gọi là chủ. Cũng như khi mặt trời lên, ánh sáng xuyên qua kẽ hở rọi vào nhà, nhìn thấy trong hư không có những hạt bụi bay lăng xăng. Bụi bay lăng xăng đó gọi là trần. Hư không đâu có bay lăng xăng, chỉ đứng yên một chỗ, gọi là chủ, còn khách là trần thì có đến có đi.

Khách trần phiền não là tâm vọng tưởng chợt sanh chợt diệt, chợt có chợt không. Trong khi dẹp trừ phiền não vọng tưởng đó, khởi tâm thương xót và muốn cứu độ chúng sanh, đó là tâm đại bi. Sao ở đây lại nói là ái kiến đại bi? Nghĩa là Bồ-tát khởi tâm thương và muốn đoạn trừ phiền não cho họ, nhưng đi trong sanh tử mãi, cảm thấy mệt mỏi chán nản, nên khởi nghĩ chỉ đời này thôi, mệt quá rồi không muốn trở lại độ họ nữa. Khởi tâm như vậy là ái kiến đại bi. Ái kiến là kiến ngã. Ai mệt? Ta mệt. Thương chúng sanh nhưng còn thấy mình mệt mỏi thì gọi đó là ái kiến đại bi. Lìa được tâm này thì sanh bất cứ nơi đâu, lúc nào cũng không bị ái kiến che lấp. Sanh ra liền nhớ bản hạnh độ sanh của mình để tiếp tục hành đạo. Nếu còn tâm ái kiến đại bi thì sanh ra liền bị ái kiến che lấp, quên bản nguyện ban đầu của mình.

Qua đó mới hiểu được tâm nguyện cao thượng, siêu thoát của Bồ-tát. Còn chúng ta có khả năng làm được việc gì thì chỉ làm một vài lần, chứ lâu dài dễ sanh mệt mỏi chán nản. Cái gì mệt? Cái ngã. Vì còn thấy mình thật nên chấp ngã sanh ái kiến. Đây là điểm yếu dở và tầm thường của mình. Giả sử ngang đây mà chết, đời sau sanh ra chắc quên hết, vì tâm ái kiến còn nặng quá, muốn nhớ lại cũng phải gần bạc đầu! Như vậy chúng ta đã biết cội gốc của sự tu, phải hiểu cho thật kỹ thì việc hành đạo mới khỏi lầm lẫn. Vì vậy nếu không học và hành theo công hạnh của Bồ-tát thì đâu thể thành Phật. Thế mà những việc làm của Bồ-tát, mình chưa được tí ti nào, thật đáng xấu hổ.

Chỗ sanh không bị trói buộc, hay vì chúng sanh nói pháp mở trói buộc, như lời Phật nói: “Nếu tự có trói buộc mà hay cởi mở cho người khác thì không có lẽ ấy. Nếu tự mình không trói buộc mà hay mở cho người, điều ấy là có được.” Do đó Bồ-tát không nên khởi trói buộc. Bồ-tát dứt ái kiến đại bi thì sanh nơi nào cũng không bị ái kiến che lấp, không có gì ràng buộc và thường nói pháp để mở trói buộc cho chúng sanh. Như lời Phật dạy, người đang bị trói buộc mà muốn cởi mở cho người khác thì không có lẽ đó. Thí dụ một đám cướp vô nhà, bắt hết mọi người trong nhà, cột mỗi người vào một cây cột. Chúng lấy hết đồ đạc và bỏ đi. Người nào cũng bị cột bị trói, muốn mở trói cho nhau có được không? Dù rất thương mà chính mình chưa mở được thì cũng khó mở được cho người. Cho nên Phật dạy chúng ta phải tự mở. Muốn tự mở thì phải phá hai kiến chấp, đó là kiến chấp về ngã và ngã sở, mình không bị trói buộc mới có thể mở được trói buộc cho người khác. Đó là lẽ thật. Khởi trói buộc tức là khởi những ái kiến về ngã và ngã sở. Người đã thọ giới Bồ-tát thì phải học những lời dạy này để thực hành theo hạnh Bồ-tát.

Sao gọi là trói? Sao gọi là mở? Tham trước thiền vị, ấy là Bồ-tát bị trói; vì phương tiện sanh, ấy là Bồ-tát mở. Sao gọi là trói? Thí dụ những vị tu thiền đạt được Diệt tận định. Khi nhập Diệt tận định rồi, muốn an trú trong sự tĩnh lặng và say sưa mãi trong đó thì gọi là Bồ-tát bị trói. Vì như vậy là không có phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh. Nên nói Bồ-tát tham trước thiền vị, gọi là bị trói. Sao gọi là mở? Nghĩa là trong khi Bồ-tát được thiền vị mà khởi phương tiện, tức là khởi lòng đại bi, muốn chỉ cho chúng sanh thoát khổ như mình, đó là mở. Nên nói do phương tiện sanh, ấy là Bồ-tát mở.

Lại không có phương tiện tuệ là bị trói, có phương tiện tuệ gọi là mở; không có tuệ phương tiện là trói, có tuệ phương tiện là mở. Sao gọi không có phương tiện tuệ bị trói? Nghĩa là Bồ-tát do tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu cho chúng sanh, đối với các pháp Không, vô tướng, vô tác mà tự điều phục, ấy gọi là không phương tiện tuệ bị trói. Chúng ta tu mà cố chấp những pháp mình được, rồi an trú và bị trói trong chỗ sở đắc, nên nói không có tuệ phương tiện bị trói. Còn nếu có tuệ phương tiện mà không chấp vào sở đắc đó, làm lợi ích cho mọi người nên nói có tuệ phương tiện là mở. Đây chỉ thêm chỗ cao tột. Trong lúc tu, Bồ-tát khởi tâm ái kiến trang nghiêm tịnh độ thành tựu chúng sanh, đối với ba môn giải thoát Không vô tướng vô tác mà tự điều phục, thì gọi là không phương tiện tuệ bị trói.

Sao gọi là có phương tiện tuệ mở? Nghĩa là không do tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh, đối trong ba pháp Không, vô tướng, vô tác, tự điều phục mà không mệt mỏi nhàm chán, ấy gọi là có phương tiện tuệ mở. Không có phương tiện tuệ bị trói và có phương tiện tuệ mở, khác nhau chỗ nào? Nghĩa là cả hai đều tu ba môn giải thoát để trang nghiêm tịnh độ thành tựu chúng sanh, nhưng sở dĩ nói không có phương tiện tuệ bị trói vì còn tâm ái kiến, có phương tiện tuệ mở là không tâm ái kiến.

Như việc xây dựng một ngôi chùa, nếu người có ý muốn xây chùa cho thật đẹp, để làm nơi tu dưỡng an nhàn, nghĩ như vậy là có tâm ái kiến. Còn nếu cất chùa để nuôi chúng và có chỗ nơi hướng dẫn chúng cùng Phật tử tu hành, tiến tới chỗ giải thoát, mà không nghĩ cho riêng mình, đó là không tâm ái kiến. Phải hiểu rõ lời của Bồ-tát chỉ cho mình biết bệnh để tránh, mới mong được giải thoát và tiến lên Phật quả.

Sao gọi là không có tuệ phương tiện bị trói? Nghĩa là Bồ-tát trụ nơi các thứ phiền não tham dục, sân nhuế, tà kiến... mà gieo trồng các cội công đức, ấy gọi là không có tuệ phương tiện bị trói. Sao gọi là có tuệ phương tiện mở? Nghĩa là lìa các thứ phiền não tham dục, sân nhuế, tà kiến... mà gieo trồng các cội công đức, hồi hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ấy gọi là có tuệ phương tiện mở. Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sanh, làm mọi việc phước đức, thấy ai nghèo khổ, bệnh hoạn thì cứu giúp... làm đủ mọi việc mà động tới thì nổi sân đùng đùng, gặp duyên thì tâm tham dấy khởi. Cho nên làm việc công đức mà còn tham dục, sân nhuế, tà kiến... thì gọi là không có tuệ phương tiện bị trói. Còn Bồ-tát gieo trồng các cội công đức mà dứt lìa các phiền não tham dục, sân nhuế, tà kiến... rồi hướng về Phật đạo thì gọi là có tuệ phương tiện mở. Đó là được giải thoát.

Văn-thù-sư-lợi, những vị Bồ-tát có bệnh kia nên quán các pháp như thế. Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, phi ngã, ấy gọi là tuệ. Tuy thân có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả chúng sanh không biết chán mỏi, ấy gọi là phương tiện. Lại nữa quán thân, thân chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng lìa thân, bệnh ấy thân ấy không phải mới không phải cũ, ấy gọi là tuệ. Dù thân có bệnh mà không hằng diệt, ấy gọi là phương tiện.

Bồ-tát có bệnh dùng các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã của Phật dạy, quán chiếu tự thân, thấu suốt được lý này, gọi đó là trí tuệ của Bồ-tát. Tuy thân bệnh, biết nó tạm bợ hư dối vẫn ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, không biết mệt mỏi. Đó gọi là Bồ-tát có phương tiện. Hàng Thanh văn cũng quán chiếu các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã như Bồ-tát, nhưng vào được cảnh giới Niết-bàn tịch tịnh rồi thích an trú trong đó. Vì thấy thân này tạm bợ, không có giá trị, nên muốn bỏ thân để nhập Niết-bàn, không phát tâm độ sanh. Nhị thừa và Bồ-tát khác nhau chỗ đó. Còn hàng phàm phu lầm chấp thân này là thật là quý, chết đi muốn sanh trở lại vì vậy mới trầm luân trong biển khổ sanh tử.

Ở đây nói Bồ-tát phải quán thân, thân không lìa bệnh, bệnh cũng không lìa thân, bệnh ấy thân ấy không phải mới không phải cũ, ấy gọi là tuệ. Tại sao? Chúng ta xét thân với bệnh, hai cái đó rời nhau không? Bệnh từ ngoài thân vào hay từ trong thân ra? Nếu bệnh không ngoài thân, tức thân không lìa bệnh, mà bệnh cũng không lìa thân. Nhưng bệnh và thân không phải mới cũng không phải cũ. Vừa phát bệnh thì nói là mới, còn bệnh năm xưa gọi là cũ, sao đây nói không phải mới không phải cũ? Như lời Phật đã dạy thân này là tứ đại hợp. Tứ đại hợp thì có chống trái nhau, mà chống trái là gốc bệnh. Cho nên có thân tứ đại là có bệnh liền, như vậy không phải mới. Gốc bệnh nằm sẵn trong thân, khi chưa đủ duyên nó chưa phát, gặp duyên mới phát, nên nói bệnh không phải là cũ. Thấy được như vậy gọi là có trí tuệ.

Vì thấy chúng sanh mê muội, thân giả tưởng là thật, khổ tưởng là vui... Bồ-tát biết thân này là gốc của bệnh, nhưng không nhập Niết-bàn, muốn còn thân để giáo hóa chúng sanh, ấy gọi là phương tiện của Bồ-tát.

Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm kia, chẳng trụ ở trong ấy cũng lại chẳng trụ chẳng điều phục tâm. Vì cớ sao? Nếu trụ chẳng điều phục tâm, ấy là pháp của người ngu; còn nếu trụ ở điều phục tâm, ấy là pháp của Thanh văn. Vì thế Bồ-tát không nên trụ ở nơi điều phục và chẳng điều phục tâm, lìa hai pháp này, ấy gọi là hạnh Bồ-tát.

Bồ-tát có bệnh nên như thế mà tự điều phục tâm, nhưng chẳng trụ trong chỗ điều phục đó. Tại sao? Nếu Bồ-tát mãi lo điều phục tâm là rất tốt, nhưng cố chấp cho việc đó là cứu cánh rồi quên làm lợi ích cho chúng sanh, ấy là pháp của Thanh văn. Còn người chưa biết điều phục tâm, cứ chạy theo vọng tâm điên đảo, đó là pháp của người ngu. Pháp của Bồ-tát thì cao thượng hơn, lìa hai pháp của Thanh văn và người ngu. Các ngài tự điều phục tâm, nhưng không trụ trong ấy, mà vẫn làm lợi ích cho mọi người, ấy là hạnh của Bồ-tát.

Ở trong sanh tử không làm hạnh ô uế, trụ nơi Niết-bàn mà không hằng diệt độ, ấy là hạnh Bồ-tát. Sống trong sanh tử như chúng sanh mà không làm những hạnh ô uế như tham, sân, si, hay phá trai, phạm giới... Trụ Niết-bàn mà không hằng diệt độ là trụ ở tâm thanh tịnh không dấy động, hằng như như. Như vậy Bồ-tát tuy ở trong sanh tử mà tâm hằng được thanh tịnh như như. Tuy tâm hằng thanh tịnh như như mà không muốn nhập Niết-bàn vô sanh. Đó là hạnh của Bồ-tát.

Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh hiền thánh, ấy là hạnh Bồ-tát. Người mê say rượu chè… đó là người xấu, thuộc hạng phàm phu. Người tu giữ giới thanh tịnh, biết rượu chè... là tội lỗi, tránh xa không bén mảng đến, đó là người tốt người hiền. Như vậy kẻ mê say, người xa lánh. Phàm phu ngồi quán rượu vì say rượu, mê rượu. Người hiền biết chỗ đó xấu nên tránh xa. Bồ-tát không phải vậy, không mê say rượu chè, nhưng có khi ngồi quán rượu để dạy người bỏ rượu, vì giáo hóa họ, đó là hạnh của Bồ-tát. Phải có đủ đạo lực mới dám làm việc này, đừng lấy cớ tu hạnh Bồ-tát rồi sớm la cà quán rượu, chiều lại đến thanh lâu, nói để giáo hóa người. Nhưng giáo hóa ai chưa biết mà mình ghiền trước, đó là đại tội. Bồ-tát tới những chỗ đó vì lòng từ bi chứ không phải như tâm phàm phu.

Chẳng phải hạnh cấu, chẳng phải hạnh tịnh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tham lam, nóng giận v.v... đó là hạnh cấu, hạnh nhơ nhớp. Không tham lam, không nóng giận... là hạnh tịnh. Nhưng Bồ-tát thì không phải thế, các ngài vì thương nên cũng có khi la rầy, đánh đập để răn sửa những chúng sanh ngoan cố. Những hành động này bên ngoài thấy như là hạnh cấu, nhưng làm vì tâm từ chứ không phải vì tham sân. La rầy đánh đập sao gọi là tịnh được! Cho nên không phải là hạnh tịnh cũng không phải hạnh cấu, ấy là hạnh Bồ-tát. Thật ra hạnh Bồ-tát là hạnh không thể lường được, phàm phu khó thấy, khó biết. Chúng ta luôn thấy có hai bên, nhìn một cách cạn cợt. Thấy ai xấu thì chê, ai tốt thì khen. Còn việc làm của Bồ-tát, có khi thấy như xấu mà tâm không phải xấu. Thật không thể nghĩ bàn!

Tuy vượt qua hạnh của ma mà hiện hàng phục chúng ma, ấy là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát không bị nghiệp chướng sanh trong các loài ma vương hay quỷ thần. Nhưng các ngài không tránh xa chúng, mà đôi khi phải thị hiện sống chung và làm những việc của ma để hàng phục chúng.

Cầu nhất thiết trí, không cầu phi thời, ấy là hạnh Bồ-tát. Nhất thiết trí là trí biết tất cả. Hàng Thanh văn thì được Nhất thiết trí, còn Phật thì gọi là Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát cầu Nhất thiết trí để biết tất cả tâm địa và các pháp vì muốn làm lợi ích chúng sanh, chứ không phải cầu an trụ Niết-bàn để thoát ly sanh tử cho bản thân mình. Vì vậy mà nói không cầu phi thời. Đó là hạnh của Bồ-tát.

Tuy quán các pháp chẳng sanh mà chẳng nhập chánh vị, ấy là hạnh Bồ-tát. Nghĩa là quán thấy các pháp không thật tánh, do duyên hợp tự tánh là không. Tự tánh không thì duyên hợp gọi là sanh, duyên ly tán gọi là diệt. Cái sanh diệt đó không thật nên nói các pháp chẳng sanh. Thấy không sanh mà không nhập chánh vị. Chánh vị là chỉ cho Niết-bàn vô sanh. Tuy thấy các pháp không sanh mà không nhập chỗ không sanh. Đó là hạnh của Bồ-tát.

Tuy quán mười hai nhân duyên khởi, mà vào các tà kiến, ấy là hạnh Bồ-tát. Pháp duyên khởi là pháp trọng yếu Phật đã dạy cho hàng Thanh văn, Bồ-tát và tất cả chúng đệ tử. Thấy các pháp do duyên sanh là thấy đúng chân lý, thấy đúng lẽ thật. Còn nếu thấy có không phải quấy là thật, đó là tà kiến. Bồ-tát lúc nào cũng thấy rõ các pháp là duyên khởi, nhưng với chúng sanh phải dạy họ bỏ ác làm lành. Điều ác điều thiện là duyên hợp không thật, nhưng vẫn nói nó thật để khuyên người tránh ác, bảo người làm lành. Như vậy có tà kiến không?

Chúng ta phải hiểu cho thật rõ, nhiều khi chỉ nhìn một chiều, thấy cái gì cũng duyên khởi tánh không, nói gì cũng không, không hết. Những người mới vào đạo, nghe nói các pháp không thật, họ không biết phải tu như thế nào. Thế nên với những người này phải chỉ thẳng: đây là tội nếu tạo sẽ bị đọa địa ngục, đây là phước nếu tu thì sanh thiên. Nói khẳng định như vậy giống tà kiến, nhưng đó là hạnh Bồ-tát vì làm lợi ích cho chúng sanh, chứ không nói theo cái thấy riêng của mình.

Tuy nhiếp phục tất cả chúng sanh mà không ái trước, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy ưa xa lìa mà không hoàn toàn y nơi diệt thân tâm, ấy là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát thương cái mê lầm của chúng sanh nên nhiếp phục, giáo hóa họ, chứ không phải vì tình cảm ái nhiễm, đó là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát tuy ưa xa lìa mà không hoàn toàn y nơi thân tâm. Các ngài thấy thân nhớp nhúa, tạm bợ không thật, nên không đắm trước thân này cảnh này. Biết thân là gốc khổ, biết cảnh là hư giả, nhưng vì lòng đại bi, muốn giáo hóa mọi người cùng thấy cùng hiểu như mình, nên không đoạn dứt thân tâm, vẫn tiếp tục tái sanh. Tuy không yêu thân, nhưng phải nhờ nó để cứu độ chúng sanh. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy đi trong tam giới mà không hoại pháp tánh, ấy là hạnh Bồ-tát. Pháp tánh là thể tánh của các pháp. Thể tánh các pháp là không. Như cái nhà không có thực thể cái nhà, cái chuông không có thực thể cái chuông, cái mõ không có thực thể cái mõ... Tất cả đều là tướng hư dối không có thực thể. Dục giới không có thực thể thì Sắc giới, Vô sắc giới cũng không có thực thể. Các ngài tuy qua lại trong tam giới hành hạnh Bồ-tát mà không hoại pháp tánh, chứ không phải như chúng ta đi trong tam giới rồi mê đắm, tới đâu tưởng thật tới đó.

Tuy hành nơi Không mà gieo trồng các cội công đức, ấy là hạnh Bồ-tát. Có người mới học đạo, nghe nói các pháp do duyên hợp tánh không, tội phước cũng không thật v.v... thì nói đâu cần phải làm phước, rồi tha hồ sống buông thả. Tuy biết rõ các pháp tự tánh không, nhưng vẫn không quên làm mọi việc công đức, đó là hạnh của Bồ-tát. Nhiều khi chúng ta học hiểu chưa thấu đáo, làm chướng ngại việc lành. Đức Phật công đức vô lượng mà còn bòn mót từng chút phước như việc xỏ kim, còn chúng ta phước đức kém mà nhiều khi thấy việc lành không muốn làm. Thấy huynh đệ làm việc nặng nhọc, nhờ phụ giúp thì ngó lơ, thật là quá dở. Thế nên nói, tuy hành nơi Không mà gieo trồng các cội công đức, ấy là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành vô tướng mà độ chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Hành vô tướng tức là thấy tất cả pháp không có tướng thật. Như cái đồng hồ, phàm phu cho là thật, thấy đẹp thấy xấu. Duyên giác thì thấy đồng hồ chỉ do các bộ phận ráp lại tạm gọi là đồng hồ, tìm thật thể đồng hồ không có. Như cái nhà có nhiều hình tướng khác nhau, chẳng qua chỉ do một mớ duyên ráp lại, chỉ là giả tướng, tạm gọi là nhà. Vậy tất cả pháp không có tướng thật thì chúng sanh đâu có thật. Chúng sanh không thật, khổ vui cũng không thật, thì họ khổ mặc kệ, cứu độ làm chi! Đó chưa phải là tâm niệm của Bồ-tát. Tuy không có tướng thật mà luôn luôn cứu độ chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh mới là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành Vô tác mà hiện thọ thân, ấy là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát không còn nghiệp dẫn đi trong sanh tử, nhưng luôn nguyện hiện thân trong tam giới để giáo hóa chúng sanh, đó là hạnh của Bồ-tát. Còn chúng ta tu, mỗi ngày nhận lãnh sự cúng dường của đàn-na thí chủ, mà chỉ mong cho hết nghiệp để được giải thoát còn thiên hạ ai sao mặc kệ, như vậy có tàn nhẫn không? Chúng ta phải có tâm niệm cao thượng của Bồ-tát để thấy rõ việc cần phải làm, chứ nhiều khi chỗ tu của mình không khéo biến thành ích kỷ, nhận của người mà cứ lo phần mình. Có phải là trốn nợ không? Hiểu cho rõ mới thấy Bồ-tát hết nghiệp rồi nhưng vẫn hiện thọ thân. Chúng ta tu phải dừng được nghiệp sanh tử của thân khẩu ý, nhưng vẫn nguyện tiếp tục sanh trong cõi Ta-bà hay trong tam giới để giáo hóa chúng sanh.

Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả hạnh lành, ấy là hạnh Bồ-tát. Tất cả pháp không có thật tướng thì cái gì sanh, cái gì diệt? Sanh tức là khởi. Tuy thấy các pháp không sanh không diệt mà luôn luôn khởi tất cả hạnh lành để làm lợi ích chúng sanh. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành lục ba-la-mật mà khắp biết tâm vương tâm sở của chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát hành sáu pháp ba-la-mật để đạt đến bờ giải thoát, nhưng không an trú ở Niết-bàn mà phải biết được tâm niệm, tâm vương, tâm sở, tâm thiện, tâm ác của chúng sanh, tùy theo đó dùng phương tiện giáo hóa họ. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành lục thông mà không có tận lậu, ấy là hạnh Bồ-tát. Lục thông là Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Túc mạng thông, Tha tâm thông, Thần túc thông và Lậu tận thông. Bồ-tát tuy tu đủ lục thông, nhưng còn giữ chút phiền não để trở lại trong tam giới độ sanh, vì khi các nghiệp đã sạch gọi là lậu tận. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành tứ vô lượng tâm mà không tham trước sanh ở cõi trời Phạm thiên, ấy là hạnh Bồ-tát. Người tu bốn hạnh từ bi hỷ xả viên mãn, được sanh về cõi trời Phạm thiên. Bồ-tát cũng tu bốn hạnh này nhưng mục đích không phải để sanh về cõi trời. Ấy là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành thiền định giải thoát tam-muội mà không sanh theo cõi Thiền, ấy là hạnh Bồ-tát. Đối với các tầng thiền từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, cho tới Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, tất cả những tam-muội trên Bồ-tát đã trải qua, nhưng các ngài không cho là cứu cánh. Thí dụ người được định Sơ thiền chết sanh về Sơ thiền thiên, người được định Tứ thiền chết sanh về Tứ thiền thiên... Còn các ngài tuy đã qua các tầng thiền nhưng không chịu sanh về trong các cõi đó, mà trở lại Ta-bà giáo hóa chúng sanh. Ấy là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành tứ niệm xứ mà không hằng lìa thân thọ tâm pháp, ấy là hạnh Bồ-tát. Tứ niệm xứ là quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Tu bốn pháp quán này thành công thì vĩnh viễn lìa thân, không còn bị sanh trở lại nữa. Nhưng các ngài tuy tu bốn pháp quán đó mà không vĩnh viễn lìa thân thọ tâm pháp, để trở lại giáo hóa chúng sanh. Ấy là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành tứ chánh cần mà không xả thân tâm tinh tấn, ấy là hạnh Bồ-tát. Tứ chánh cần là điều ác chưa sanh thì ngăn đừng cho phát sanh, điều ác đã sanh thì phải cố gắng diệt trừ, điều thiện chưa sanh thì làm cho phát sanh, điều thiện đã sanh thì phải tạo điều kiện cho tăng trưởng. Bồ-tát tu tứ chánh cần, thân tâm vẫn luôn luôn tinh tấn không dừng. Ấy gọi là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành tứ như ý túc mà được tự tại thần thông, ấy là hạnh Bồ-tát. Tứ như ý túc là dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, nhất tâm như ý túc hay là định như ý túc. Hàng Thanh văn tu bốn pháp này thì được đầy đủ bốn như ý túc. Bồ-tát tuy thực hành bốn pháp đó không những được như ý túc mà còn được thần thông tự tại. Đó là hạnh của Bồ-tát.

Tuy hành ngũ căn mà phân biệt các căn lợi độn của chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Khi tu ngũ căn chủ yếu là để biết căn cơ của chúng sanh lợi độn thế nào để tìm cách giáo hóa họ. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành ngũ lực mà ưa cầu thập lực của Phật, ấy là hạnh Bồ-tát. Hạnh Thanh văn thì tu ngũ lực, Bồ-tát thì không dừng ngang đó mà mong cầu được thập lực của Phật mới thôi. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành thất giác phần mà phân biệt trí tuệ Phật, ấy là hạnh Bồ-tát. Thất giác phần hay thất Bồ-đề phần là bảy phần giác ngộ của Thanh văn. Ở đây Bồ-tát cũng tu bảy phần giác ngộ này nhưng chỉ cầu được trí tuệ Phật chứ không phải trí tuệ Thanh văn. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành bát chánh đạo mà ưa hành vô lượng Phật đạo, ấy là hạnh Bồ-tát. Tu bát chánh đạo là để diệt trừ tâm bệnh. Ở đây Bồ-tát tu bát chánh đạo nhưng nguyện hành vô lượng Phật đạo. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành pháp chỉ quán trợ đạo mà cứu cánh không rơi vào tịch diệt, ấy là hạnh Bồ-tát. Tu chỉ quán để tâm tĩnh lặng. Tâm lặng là tiến tới chỗ tịch diệt. Bồ-tát cũng tu chỉ tu quán, dùng pháp này làm pháp trợ đạo, nhưng các ngài không an trú chỗ tịch diệt. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy hành các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân kia, ấy là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát biết thực thể các pháp không sanh không diệt mà luôn tu các hạnh tướng hảo để trang nghiêm thân. Tại sao? Đã biết các pháp không sanh không diệt thì thân này đâu có thật, sao lại tu các tướng hảo? Như Kinh nói đức Phật được tướng lưỡi rộng dài là do nhiều đời ngài tu hạnh không nói dối, được trái tai dài là do nhiều đời tu hạnh không giết hại chúng sanh. Như vậy mỗi một hạnh tu là được một tướng tốt. Bồ-tát biết các tướng không thật, không sanh diệt, nhưng vì thương chúng sanh nên tu những hạnh lành để làm lợi ích cho họ chứ không phải vì mình. Đó là hạnh của Bồ-tát.

Tuy hiện oai nghi Thanh văn Bích-chi Phật mà không xả Phật pháp, ấy là hạnh Bồ-tát. Có khi các ngài thị hiện như những vị Thanh văn hay Bích-chi Phật, cũng đi khất thực, giữ giới thanh tịnh. Nhưng không xả Phật pháp, luôn lấy Phật đạo làm gốc, chứ không kẹt trong pháp Thanh văn Bích-chi Phật. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy tùy tướng thanh tịnh cứu cánh của các pháp mà tùy sở ứng để hiện thân kia, ấy là hạnh Bồ-tát. Tướng của các pháp không thêm không bớt, không nhơ không sạch, nên cứu cánh là thanh tịnh. Tuy các pháp cứu cánh thanh tịnh nhưng Bồ-tát tùy chỗ lợi ích chúng sanh, có khi hiện thân nhơ nhớp, có khi hiện thân tốt đẹp để giáo hóa họ. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy quán cõi nước chư Phật hằng tịch như không mà hiện các cõi Phật thanh tịnh, ấy là hạnh Bồ-tát. Kinh Kim Cang, Phật dạy: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nghĩa là phàm cái gì có tướng đều là hư dối. Nếu là một cõi nước thì phải có tướng, như vậy tất cả cõi Phật hiện ra có tướng thì cõi nào cũng là hư dối. Bồ-tát tuy quán các cõi Phật là tịch diệt, là không, nhưng luôn luôn hiện ra các cõi Phật thanh tịnh để giáo hóa, khiến chúng sanh phát tâm hướng về. Như vậy trên lý nói đến chỗ tột cùng mà trên sự vẫn làm đầy đủ các việc lợi ích cho chúng sanh. Đó là hạnh Bồ-tát.

Tuy được Phật đạo chuyển pháp luân vào Niết-bàn mà không bỏ đạo Bồ-tát, ấy là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát tu công đức viên mãn thành Phật, đầy đủ phẩm hạnh giáo hóa chúng sanh, lý đáng nhập Niết-bàn mà vẫn giữ bản nguyện của mình để tiếp tục độ sanh. Đó là hạnh Bồ-tát.

Chúng ta tu chỉ mơ ước được thành Phật, muốn an trú Niết-bàn, chứ không nghĩ đến nỗi khổ của chúng sanh, để phát tâm trở lại tam giới cứu độ họ. Con người sanh ra, ai cũng có cha mẹ anh em, thân bằng quyến thuộc. Từ thuở bé đến lớn khôn, kể sao cho hết công lao nuôi dưỡng của gia đình. Vào chùa được an ổn tu hành là nhờ sự giúp đỡ của đàn-na tín thí... Nợ của chúng ta nhiều biết là dường nào? Thế mà tu chỉ muốn thành Phật chứ không nghĩ đến ơn nghĩa của mọi người. Tuy phải có nguyện thành Phật nhưng không bao giờ quên độ sanh. Bồ-tát đối với chúng sanh thật đủ tình đủ nghĩa, không bỏ ai hết. Chúng ta phải học theo gương các ngài, phải thấy chúng sanh với ta ân nghĩa rõ ràng. Mình được tỉnh phải nhớ tới người mê, nên đâu thể nhập Niết-bàn, đó là hạnh Bồ-tát.

Khi nói lời ấy rồi, đại chúng đi theo ngài Văn-thù- sư-lợi, trong đó tám ngàn vị thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi nghe cư sĩ Duy-ma-cật nói, tám ngàn vị thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Chúng ta tu, muốn đạt đến chỗ cứu cánh thành Phật thì phải phát tâm Bồ-tát. Phát tâm Bồ-tát thì phải nguyện độ chúng sanh. Muốn độ chúng sanh thì phải mở trói cho mình trước, rồi mới mở cho người. Mình chưa mở mà đòi mở cho người, đó chỉ là nói suông, nói không thật. Người tu chân chánh, hiểu đạo thì phải sống đúng như thật. Nghĩa là giải thoát cho mình và nguyện làm lợi ích cho chúng sanh, không chỉ một đời mà mãi mãi. Chừng nào hết chúng sanh mới trả hết nợ. Mong tất cả cố gắng.

VI- PHẨM BẤT TƯ NGHÌ

Bất tư nghì là không thể nghĩ bàn. Phẩm này nói về hành động của những vị Bồ-tát vào hàng thượng thủ. Các ngài không còn kẹt hai bên, do đó không còn chỗ để chúng ta suy gẫm tìm hiểu.

Chánh văn:

Khi ấy ngài Xá-lợi-phất thấy trong thất này không có sàng tòa, liền khởi nghĩ: “Những vị Bồ-tát và chúng đại đệ tử của Phật sẽ ngồi ở chỗ nào?”

Trưởng giả Duy-ma-cật biết ý đó, nên nói với ngài Xá-lợi-phất rằng:

- Thế nào nhân giả, vì pháp mà đến ư? Vì sàng tòa mà đến ư?

Ngài Xá-lợi-phất nói:

- Tôi vì pháp mà đến chứ không phải vì sàng tòa mà đến.

Ông Duy-ma-cật nói:

- Thưa ngài Xá-lợi-phất, phàm người cầu pháp không tiếc thân mạng, huống là sàng tòa? Phàm người cầu pháp chẳng phải có sắc thọ tưởng hành thức mà cầu, chẳng có giới nhập mà cầu, chẳng có Dục, Sắc, Vô sắc mà cầu.

Thưa ngài Xá-lợi-phất, phàm người cầu pháp không chấp nơi Phật mà cầu, không chấp nơi pháp mà cầu, không chấp nơi chúng tăng mà cầu. Phàm người cầu pháp không thấy khổ để cầu, không có đoạn tập để cầu, không đến chứng diệt và tu đạo để cầu. Vì cớ sao? Pháp không có hý luận, nếu nói tôi sẽ kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, ấy là hý luận, chẳng phải là cầu pháp.

Thưa ngài Xá-lợi-phất, pháp gọi là tịch diệt, nếu hành sanh diệt ấy là cầu sanh diệt không phải cầu pháp. Pháp gọi là vô nhiễm, nếu nhiễm nơi pháp cho đến Niết-bàn ắt là nhiễm trước, chẳng phải cầu pháp. Pháp không hành xứ, nếu hành nơi pháp ắt là hành xứ, chẳng phải cầu pháp. Pháp không thủ xả, nếu thủ xả pháp ắt là thủ xả, chẳng phải cầu pháp. Pháp không chỗ nơi, nếu chấp chỗ nơi ắt là chấp chỗ nơi, chẳng phải cầu pháp. Pháp gọi là vô tướng, nếu tùy theo tướng mà biết ắt là cầu tướng chứ không phải cầu pháp. Pháp không thể trụ, nếu trụ nơi pháp ắt là trụ pháp chứ không phải cầu pháp. Pháp không thể thấy nghe hiểu biết, nếu thực hành thấy nghe hiểu biết ắt là thấy nghe hiểu biết chứ không phải cầu pháp. Pháp gọi là vô vi, nếu hành hữu vi ấy là cầu hữu vi chứ không phải cầu pháp. Thế nên, ngài Xá-lợi-phất! Nếu là người cầu pháp, đối với tất cả pháp nên không có chỗ cầu.

Khi nói lời ấy rồi, năm trăm vị thiên tử đối trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.

Bấy giờ trưởng giả Duy-ma-cật hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi:

- Nhân giả dạo đi vô lượng ngàn muôn ức a-tăng-kỳ cõi nước, những cõi Phật nào có tòa sư tử do công đức thành tựu tốt đẹp nhất?

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Này cư sĩ, ở phương đông qua ba mươi sáu hằng hà sa cõi nước, có thế giới tên là Tu-di Tướng, đức Phật ấy hiệu là Tu-di Đăng Vương, hiện nay vẫn còn. Thân đức Phật kia cao tám muôn bốn ngàn do-tuần, tòa sư tử kia cao tám muôn bốn ngàn do-tuần, trang nghiêm đẹp đẽ bậc nhất.

Khi ấy trưởng giả Duy-ma-cật hiện sức thần thông, tức thì đức Phật kia dời ba muôn hai ngàn tòa sư tử cao rộng đẹp đẽ, đem vào trong thất ông Duy-ma-cật, chư Bồ-tát và các vị đại đệ tử, Đế-thích, Phạm thiên, Tứ thiên vương v.v... từ xưa chưa từng thấy. Thất rộng lớn dung chứa hết ba muôn hai ngàn tòa sư tử mà không chướng ngại. Ở trong thành Tỳ-da-ly cho đến tứ thiên hạ cõi Diêm-phù-đề cũng không bị ép ngặt, thảy đều thấy như cũ.

Bấy giờ ông Duy-ma-cật mời ngài Văn-thù-sư-lợi lên tòa sư tử, cùng với các vị Bồ-tát thượng nhân đồng ngồi, thân phải đứng cao bằng tòa kia. Những vị Bồ-tát đã được thần thông liền tự biến hình cao bốn muôn hai ngàn do-tuần, lên ngồi trên tòa sư tử. Các vị Bồ-tát mới phát tâm và các vị đại đệ tử của Phật đều không thể lên tòa được.

Lúc đó ông Duy-ma-cật nói với ngài Xá-lợi-phất:

- Mời Ngài lên ngồi tòa sư tử.

Ngài Xá-lợi-phất nói:

- Này cư sĩ! Tòa này cao rộng, tôi không thể lên được.

Ông Duy-ma-cật nói:

- Thưa ngài Xá-lợi-phất, phải đảnh lễ đức Phật Tu-di Đăng Vương mới có thể ngồi được.

Khi ấy những vị Bồ-tát mới phát tâm và những vị đại đệ tử Phật bèn đảnh lễ đức Phật Tu-di Đăng Vương, liền lên ngồi được tòa sư tử.

Ngài Xá-lợi-phất nói:

- Này cư sĩ, thật là chưa từng có! Thất nhỏ như thế mà có thể dung chứa được tòa cao rộng này, như thành Tỳ-da-ly cũng không bị chướng ngại, lại thêm chợ búa thành ấp trong cõi Diêm-phù-đề, và cung điện của chư thiên, long vương, quỷ thần trong tứ thiên hạ cũng không bị ép ngặt.

Ông Duy-ma-cật nói:

- Thưa ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Bồ-tát có pháp môn giải thoát tên là Bất khả tư nghì. Nếu Bồ-tát trụ pháp môn giải thoát ấy, lấy núi Tu-di cao rộng mà nhét trong một hạt cải vẫn không có thêm bớt, núi chúa Tu-di tướng xưa vẫn như cũ mà chư thiên của Tứ thiên vương và Đao-lợi không biết không hay mình bị nhét vào trong ấy, chỉ có những người đáng độ mới thấy được núi Tu-di nhét trong hạt cải, ấy gọi là pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì. Lại dùng nước trong bốn biển cả dồn vào một lỗ chân lông mà không nhiễu loạn các loài thủy tộc cá, trạnh, giải, đà... mà biển cả kia, tướng xưa vẫn như cũ, các loài rồng, quỷ thần, a-tu-la... không hay không biết mình bị vào trong lỗ chân lông, đối với chúng sanh này cũng không bị nhiễu loạn.

Lại nữa Xá-lợi-phất! Bồ-tát trụ pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì, nắm lấy tam thiên đại thiên thế giới như ông thợ gốm cầm hòn đất trong bàn tay mặt ném ra xa ngoài thế giới nhiều như cát sông Hằng rồi đặt trở về chỗ cũ, mà chúng sanh ở trong đó không hay không biết mình đã dời đổi, đều khiến những người đó không nghĩ rằng mình có đi qua lại, mà tướng xưa của thế giới này cũng vẫn như cũ.

Lại nữa Xá-lợi-phất, hoặc có chúng sanh ưa sống lâu ở đời mà có thể độ được, Bồ-tát liền kéo dài bảy ngày ra làm một kiếp, khiến cho những chúng sanh kia cho rằng mình sống một kiếp. Hoặc có chúng sanh không ưa sống lâu ở đời mà có thể độ được, Bồ-tát liền rút ngắn một kiếp làm bảy ngày, khiến chúng sanh kia cho là bảy ngày.

Lại nữa ngài Xá-lợi-phất, Bồ-tát trụ trong pháp giải thoát Bất khả tư nghì, đem việc trang nghiêm tất cả các cõi Phật hợp lại thành một nước, để chỉ bày cho chúng sanh. Lại Bồ-tát đem chúng sanh trong các cõi Phật để trên bàn tay phải, bay đến khắp mười phương chỉ bày cho tất cả mà không dời khỏi chỗ cũ. Lại Xá-lợi-phất, những phẩm vật của chúng sanh trong mười phương cúng dường chư Phật, Bồ-tát nơi một lỗ chân lông đều khiến được thấy. Lại nữa mười phương cõi nước tất cả mặt trời, mặt trăng, sao... nơi một lỗ chân lông đều khiến cho thấy hết.

Lại Xá-lợi-phất, tất cả các gió ở trong mười phương thế giới, Bồ-tát thảy đều có thể hút hết vào trong miệng mà thân không tổn hại, các cây cối bên ngoài cũng không bị gãy đổ. Lại mười phương thế giới khi kiếp hỏa tận, Bồ-tát đem tất cả lửa để vào trong bụng, lửa vẫn cháy như cũ mà không bị tổn hại. Lại ở phương dưới qua hằng hà sa số thế giới của chư Phật, lấy một cõi Phật đưa lên phương trên qua hằng hà sa số thế giới, giống như là cầm cây kim nhọn ghim vào lá táo mà không bị tổn hại.

Lại Xá-lợi-phất, những vị Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì, hay dùng thần thông hiện làm thân Phật, hoặc hiện thân Bích-chi Phật hoặc hiện thân Thanh văn, hoặc hiện thân Đế-thích hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Thế chủ hoặc hiện thân Chuyển luân thánh vương. Lại tất cả các thứ tiếng trong mười phương thế giới, âm thanh bậc trung thượng hạ đều có thể biến thành tiếng của Phật, để diễn nói lý Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Và mười phương chư Phật đang nói những pháp gì ở trong đó, đều khiến được nghe khắp. Này ngài Xá-lợi-phất, nay tôi lược nói năng lực của pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì của Bồ-tát, nếu rộng nói cùng kiếp cũng không thể hết.

Khi ấy ngài Đại Ca-diếp nghe nói pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì của Bồ-tát, ngài tán thán việc chưa từng có, mới bảo ngài Xá-lợi-phất rằng:

- Ví như có người ở trước người mù hiện bày các thứ hình sắc, người mù kia không thể thấy. Cũng lại như thế, tất cả Thanh văn nghe pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì này không thể hiểu rõ. Người trí nghe pháp này, ai mà chẳng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Chúng ta vì sao mất hẳn cội gốc kia, đối với Đại thừa này mình như hạt giống mục! Tất cả Thanh văn nghe pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì này, đều nên phải khóc rống lên, âm thanh chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả Bồ-tát nên rất vui mừng, đảnh thọ pháp này. Nếu có Bồ-tát tin hiểu pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì, tất cả chúng ma không thể làm gì được.

Khi ngài Đại Ca-diếp nói lời ấy rồi, ba muôn hai ngàn thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc bấy giờ ông Duy-ma-cật nói với ngài Đại Ca-diếp:

- Nhân giả, trong mười phương vô lượng a-tăng-kỳ thế giới, những vị làm ma vương, phần nhiều là Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì. Các ngài dùng sức phương tiện để giáo hóa chúng sanh nên hiện làm ma vương. Lại nữa ngài Ca-diếp, mười phương vô lượng Bồ-tát, hoặc có người theo mình mà xin tay chân tai mũi, đầu mắt tủy não, máu thịt da xương, xóm làng thành ấp, vợ con tôi tớ, voi ngựa xe cộ, vàng bạc lưu ly, xa cừ mã não, san hô, hổ phách, trân châu kha bối, y phục thức ăn uống, những người xin như thế, phần nhiều là Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì, dùng sức phương tiện đến thử, khiến người kia được kiên cố. Vì cớ sao? Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì có sức oai đức, nên thị hiện các hạnh bức bách, chỉ bày cho chúng sanh những việc khó làm như thế. Người phàm phu hạ liệt, không có thế lực, không thể nào bức bách được Bồ-tát. Ví như voi lớn giẫm đạp, con lừa không thể chịu nổi, ấy gọi là cửa phương tiện trí tuệ trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì của Bồ-tát.

Giảng:

Khi ấy ngài Xá-lợi-phất thấy trong thất này không có sàng tòa, liền khởi nghĩ: “Những vị Bồ-tát và chúng đại đệ tử của Phật sẽ ngồi ở chỗ nào?”

Trưởng giả Duy-ma-cật biết ý đó, nên nói với ngài Xá-lợi-phất rằng:

- Thế nào nhân giả, vì pháp mà đến ư? Vì sàng tòa mà đến ư?

Ngài Xá-lợi-phất nói:

- Tôi vì pháp mà đến chứ không phải vì sàng tòa mà đến.

Ông Duy-ma-cật nói:

- Thưa ngài Xá-lợi-phất, phàm người cầu pháp không tiếc thân mạng, huống là sàng tòa? Phàm người cầu pháp chẳng phải có sắc thọ tưởng hành thức mà cầu, chẳng có giới nhập mà cầu, chẳng có Dục, Sắc, Vô sắc mà cầu.

Người thật tâm cầu pháp dầu cho phải tan thân mất mạng còn không tiếc, huống là không có ghế ngồi mà cho là quan trọng sao? Theo cư sĩ Duy-ma-cật, cầu pháp có ba trường hợp:

- Trường hợp thứ nhất: Không căn cứ trên thân năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức mà cầu. Năm uẩn là tướng sanh diệt mà pháp này là pháp bất sanh bất diệt, nên căn cứ trên tướng sanh diệt mà cầu pháp thì không thể được.

- Trường hợp thứ hai: Không căn cứ trên giới nhập mà cầu. Nhập là mười hai nhập, gồm sáu căn sáu trần, chung cả thân và cảnh. Giới là mười tám giới gồm sáu căn sáu trần và sáu thức, tức là trong thân có thức, ngoài có căn và trần. Nhập và giới đều là tướng sanh diệt, nên nói không thể ở trong mười hai nhập, mười tám giới mà cầu pháp.

- Trường hợp thứ ba: Không ở trong ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc giới mà cầu. Vì tam giới là tướng vô thường, muốn cầu pháp bất sanh bất diệt mà nương vào tướng vô thường làm sao cầu được.

Thế nên ở đây xác định ba trường hợp không thể nương tựa để cầu pháp là: thân năm uẩn, mười hai nhập, mười tám giới, ba cõi, vì cả ba đều là tướng vô thường.

Thưa ngài Xá-lợi-phất, phàm người cầu pháp không chấp nơi Phật mà cầu, không chấp nơi pháp mà cầu, không chấp nơi chúng tăng mà cầu. Thông thường, người cầu pháp phải nương tựa vào Phật pháp tăng, nhưng tại sao ở đây lại nói cầu pháp không nương tựa vào Tam bảo?

Chữ Pháp cư sĩ Duy-ma-cật nói là đúng với tinh thần chữ pháp trong bài kệ chư tổ trao truyền. Pháp là chỉ cho tâm bất sanh bất diệt. Nếu muốn cầu pháp đó thì không chấp nơi Phật pháp tăng, mà phải nhận được từ bản tâm bất sanh bất diệt của chính mình. Vì Phật pháp tăng bên ngoài không phải là chỗ cứu cánh. Phật Thích-ca chỉ là hóa thân, pháp là lời chỉ dạy của ngài, như ngón tay chỉ mặt trăng, tăng là người thừa kế. Chúng tăng là hòa hợp chúng, nhưng đã là hòa hợp thì cũng là tướng sanh diệt. Thế nên chúng ta không nên chấp Tam bảo bên ngoài, mà phải nương Tam bảo tự tâm của chính mình mới cầu được pháp bất sanh bất diệt.

Phàm người cầu pháp không thấy khổ để cầu, không có đoạn tập để cầu, không đến chứng diệt và tu đạo để cầu. Vì cớ sao? Pháp không có hý luận, nếu nói tôi sẽ kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, ấy là hý luận, chẳng phải là cầu pháp.

Pháp tu của hàng Nhị thừa là pháp tứ đế. Trước phải kiến đế, tức là thấy được khổ đế, kế là đoạn tập đế, sau là chứng diệt đế, nhưng muốn chứng diệt đế thì phải tu đạo đế. Đó là những bước trải qua của người cầu pháp tiến đến thánh quả. Chữ Pháp ở đây là chỉ cho pháp thể thanh tịnh. Pháp thể thanh tịnh đó nếu còn có thấy, có đoạn, có tu, có chứng cũng là tướng tạo tác sanh diệt, chứ chưa phải là pháp chân thật viên mãn thanh tịnh. Thế nên nói, không phải trong bốn pháp tứ đế mà cầu.

Phàm cái gì còn thấy hai bên, còn thấy sanh diệt, đều thuộc về hý luận. Nếu thấy có khổ để đoạn, có diệt để chứng là thấy hai bên, cũng nằm trong pháp hý luận, chưa phải là pháp bất sanh bất diệt. Còn chỗ chân thật thì không đối đãi, không hý luận.

Thưa ngài Xá-lợi-phất, pháp gọi là tịch diệt, nếu hành sanh diệt ấy là cầu sanh diệt không phải cầu pháp. Pháp gọi là vô nhiễm, nếu nhiễm nơi pháp cho đến Niết-bàn ắt là nhiễm trước, chẳng phải cầu pháp. Pháp thể là tịch diệt mà dùng hạnh sanh diệt để cầu, đó là cầu sanh diệt chứ không phải cầu pháp. Pháp thể hằng thanh tịnh nên không nhiễm ô, tức là vô nhiễm. Như chúng ta thấy khổ thì chán, thấy Niết-bàn thì ưa, đã có chán có ưa là có nhiễm trước, nên nói nếu còn nhiễm nơi pháp, cho đến Niết-bàn cũng là nhiễm trước, chứ không phải cầu pháp.

Pháp không hành xứ, nếu hành nơi pháp ắt là hành xứ, chẳng phải cầu pháp. Pháp không tướng mạo thì không có chỗ để thực hành, nếu có thực hành thì không phải là cầu pháp.

Pháp không thủ xả, nếu thủ xả pháp ắt là thủ xả, chẳng phải cầu pháp. Vì pháp này là pháp thể tròn đầy trong sáng không nhiễm nhơ, không sanh diệt, không đối đãi hai bên. Bởi không hai bên nên không thủ xả. Thủ xả theo nghĩa thông thường tức là thủ thiện xả ác. Chúng ta tu thường có tâm niệm bỏ ác giữ lành, đó thuộc về pháp thủ xả, tốt trong giới hạn đối đãi. Nhưng nếu nói đến pháp tánh vượt ngoài đối đãi thì không thủ xả, còn có thủ xả không phải là cầu pháp.

Pháp không chỗ nơi, nếu chấp chỗ nơi ắt là chấp chỗ nơi, chẳng phải cầu pháp. Pháp gọi là vô tướng, nếu tùy theo tướng mà biết ắt là cầu tướng chứ không phải cầu pháp. Vì pháp này không có tướng mạo, cũng không có giới hạn, nếu đặt ra tướng mạo, giới hạn thì không phải là cầu pháp. Phàm cái gì có tướng đều nằm trong vô thường, duyên hợp, mà pháp thể không phải vô thường, không phải duyên hợp cho nên là vô tướng. Vì vậy nếu tùy theo tướng mà biết, ắt là cầu tướng chứ không phải cầu pháp. Như trong trong kinh Kim Cang nói vô tướng là thật tướng, tức là chỉ cho pháp thể.

Pháp không thể trụ, nếu trụ nơi pháp ắt là trụ pháp chứ không phải cầu pháp. Pháp không thể thấy nghe hiểu biết, nếu thực hành thấy nghe hiểu biết ắt là thấy nghe hiểu biết chứ không phải cầu pháp. Pháp gọi là vô vi, nếu hành hữu vi ấy là cầu hữu vi chứ không phải cầu pháp.

Vì pháp thể trùm khắp không nơi chốn, nếu còn có chỗ trụ tức là trụ pháp, chứ không phải là cầu pháp. Pháp thể với tâm thể chúng ta không hai không khác, đối với thấy nghe hiểu biết của mình thì ngoại cảnh và các pháp là đối tượng. Nghĩa là trong có năng kiến ngoài có sở kiến hay trong có năng văn ngoài có sở văn, thành hai bên đối đãi nhau. Nếu lấy đối đãi để cầu pháp không đối đãi thì chưa phải cứu cánh, nên không phải là cầu pháp.

Phàm những pháp còn tướng sanh trụ dị diệt là tướng hữu vi. Pháp vô vi không có hình tướng nên không có sanh trụ dị diệt. Nếu dùng tướng sanh trụ dị diệt để cầu, đó là tìm cầu cái hữu vi chứ không phải là cầu pháp.

Thế nên, ngài Xá-lợi-phất! Nếu là người cầu pháp, đối với tất cả pháp nên không có chỗ cầu.

Khi nói lời ấy rồi, năm trăm vị thiên tử đối trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.

Câu kết thúc này chúng ta thấy gần giống với câu ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm trong kinh Kim Cang mà Lục Tổ đã ngộ. Vậy người cầu pháp đối với tất cả pháp không có chỗ cầu, ấy mới gọi là cầu pháp. Nghĩa là muốn cầu pháp viên mãn thanh tịnh bất sanh bất diệt thì đừng dính kẹt ở một pháp nào.

Ở đây cư sĩ Duy-ma-cật muốn giải thích cho tôn giả Xá-lợi-phất hiểu đúng tinh thần cầu pháp. Lâu nay chúng ta cầu pháp chỉ là cầu pháp sanh diệt. Bước đầu của người tu phải nương pháp tướng để thể nhập pháp tánh, nếu còn mắc kẹt trên tướng thì không bao giờ đạt được thể tánh bất sanh bất diệt. Qua đó chúng ta thấy ý nghĩa đoạn trên, chư Bồ-tát muốn bác bỏ những chấp tướng để đạt được thể tánh bất sanh bất diệt ngay tự thân mỗi người.

Bấy giờ trưởng giả Duy-ma-cật hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi:

- Nhân giả dạo đi vô lượng ngàn muôn ức a-tăng-kỳ cõi nước, những cõi Phật nào có tòa sư tử do công đức thành tựu tốt đẹp nhất?

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Này cư sĩ, ở phương đông qua ba mươi sáu hằng hà sa cõi nước, có thế giới tên là Tu-di Tướng, đức Phật ấy hiệu là Tu-di Đăng Vương, hiện nay vẫn còn. Thân đức Phật kia cao tám muôn bốn ngàn do-tuần, tòa sư tử kia cao tám muôn bốn ngàn do-tuần, trang nghiêm đẹp đẽ bậc nhất.

Khi ấy trưởng giả Duy-ma-cật hiện sức thần thông, tức thì đức Phật kia dời ba muôn hai ngàn tòa sư tử cao rộng đẹp đẽ, đem vào trong thất ông Duy-ma-cật, chư Bồ-tát và các vị đại đệ tử, Đế-thích, Phạm thiên, Tứ thiên vương v.v... từ xưa chưa từng thấy. Thất rộng lớn dung chứa hết ba muôn hai ngàn tòa sư tử mà không chướng ngại. Ở trong thành Tỳ-da-ly cho đến tứ thiên hạ cõi Diêm-phù-đề cũng không bị ép ngặt, thảy đều thấy như cũ.

Bấy giờ ông Duy-ma-cật mời ngài Văn-thù-sư-lợi lên tòa sư tử, cùng với các vị Bồ-tát thượng nhân đồng ngồi, thân phải đứng cao bằng tòa kia.

Chúng ta đã biết Tịnh Danh là tên của cư sĩ Duy-ma-cật, tức là tâm thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh, tất cả khởi nghĩ đều là diệu dụng. Cho nên nghe Bồ-tát Văn-thù nói cõi đó có tòa sư tử đẹp như vậy, cư sĩ Duy-ma-cật khởi nghĩ muốn những tòa đó đến thất của mình, các tòa liền có. Đó là diệu dụng bất khả tư nghì, không thể dùng tình thức phân biệt của phàm phu mà lường nổi diệu dụng của tâm thanh tịnh. Nhưng tất cả diệu dụng đều là huyễn hóa không thật. Bởi lẽ thất cư sĩ Duy-ma-cật thể tánh vốn không, nên dung chứa hết ba muôn hai ngàn tòa sư tử cao rộng mà không thấy chật hẹp chướng ngại, do đó mới hiểu được việc làm của ông. Như chúng ta xem chiếu bóng, thấy trên màn ảnh có người, xe hơi, nhà lầu, núi sông... Tại sao chỉ một tấm vải vài mét lại chứa nổi bao nhiêu thứ đó được? Vì nhà cửa, núi sông, người xe v.v... trong màn ảnh đó đều là tướng huyễn, chứ nếu thật thì dồn vô làm gì được. Nhưng diệu dụng đó cũng là hư huyễn, đã hư huyễn thì dồn chứa có gì chướng ngại chật hẹp ép ngặt! Đó là ý nghĩa thất không.

Qua đoạn này chúng ta thấy có điểm đặc biệt. Tòa sư tử cao rộng tám muôn bốn ngàn do-tuần, nếu thân mình thấp thì ngồi lên không được. Người muốn lên ngồi được tòa đó phải cao tương tự. Chư Bồ-tát đã được tâm bình đẳng không còn thấy có lớn nhỏ, nên không thấy tòa sư tử lớn vào trong thất nhỏ mà thành chật hẹp.

Những vị Bồ-tát đã được thần thông liền tự biến hình cao bốn muôn hai ngàn do-tuần, lên ngồi trên tòa sư tử. Các vị Bồ-tát mới phát tâm và các vị đại đệ tử của Phật đều không thể lên tòa được.

Lúc đó ông Duy-ma-cật nói với ngài Xá-lợi-phất:

- Mời ngài lên ngồi tòa sư tử.

Ngài Xá-lợi-phất nói:

- Này cư sĩ! Tòa này cao rộng, tôi không thể lên được.

Ông Duy-ma-cật nói:

- Thưa ngài Xá-lợi-phất, phải đảnh lễ đức Phật Tu-di Đăng Vương mới có thể ngồi được.

Khi ấy những vị Bồ-tát mới phát tâm và những vị đại đệ tử Phật bèn đảnh lễ đức Phật Tu-di Đăng Vương, liền lên ngồi được tòa sư tử.

Tại sao các vị Bồ-tát lớn như Văn-thù có thể ngồi lên tòa được, Bồ-tát bậc trung phải dùng thần thông, còn Bồ-tát mới phát tâm và hàng Thanh văn phải đảnh lễ đức Tu-di Đăng Vương Như Lai mới ngồi được? Các vị Bồ-tát thượng nhân và Bồ-tát Văn-thù đều có diệu dụng tương xứng với cư sĩ Tịnh Danh, nên quý ngài thừa khả năng chứng nhập. Đã tương xứng với Tịnh Danh thì cái gì Tịnh Danh nghĩ hiện ra, các ngài đều ứng dụng không ngại. Các Bồ-tát bậc trung phải vận dụng khả năng mạnh mẽ mới phù hợp. Còn những vị Bồ-tát sơ phát tâm và Thanh văn phải có niềm tin mới kham thọ dụng. Vì vậy bản ý bộ kinh này, mở đầu là phẩm Tịnh Phật Quốc Độ nghĩa là tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Tâm tịnh là nhân, cõi Phật tịnh là quả. Tâm thanh tịnh rồi mới khởi diệu dụng, tức là nhân viên mãn, quả viên mãn. Như vậy chúng ta mới hiểu năng lực bất khả tư nghì của cư sĩ Duy-ma-cật, đó là diệu dụng của tâm thanh tịnh. Thế nên chúng ta phải tin tưởng mạnh mẽ rằng, khi đã gạt bỏ hết vọng tưởng điên đảo, tâm thuần thanh tịnh, lúc đó tưởng như là khờ là dốt, nhưng chính khi ấy mới là diệu dụng bất khả tư nghì. Vì sao? Vì tâm thể mình vốn tròn sáng, sở dĩ tối là do tình chấp vô minh, gặp duyên xấu huân tập nên bị ẩn khuất. Như được gặp thầy tốt, hữu sư trí, lần lần tánh xấu hết, đến khi thuần tịnh, vô sư trí, thì hằng sống được với tâm thể thanh tịnh sẵn có từ vô thủy. Đó là pháp giải thoát Bất khả tư nghì của Bồ-tát.

Ở đây nói lý nghe thì hiểu mà không thực tế, bây giờ tạm mượn thí dụ cho dễ hiểu. Như giữa hai đống cát, một thước khối và một trăm thước khối, đống một trăm thước khối là lớn, đống một thước khối là nhỏ. Căn cứ trên sự tụ họp nhiều cát gọi là lớn, ít cát gọi là nhỏ; nếu căn cứ trên hạt cát thì không có lớn nhỏ. Cũng vậy, tất cả pháp đều do duyên hợp nên không có thực thể, không tự tánh, là tướng giả hợp nên có to có nhỏ, chứ thực thể thì không có to có nhỏ. Vì vậy bao nhiêu tòa sư tử to lớn dồn trong cái thất nhỏ cũng không thấy chật hẹp. Trên lý, pháp tánh không có tánh cố định là thật cho nên gọi là tánh không, mà tánh không thì còn gì có lớn nhỏ.

Tóm lại, đoạn trên nói rằng thần thông của cư sĩ Duy-ma-cật biến ra được các tòa đem lại để trong thất mà không thấy chật. Cả thành Tỳ-da-ly cũng không thấy chật hẹp, vẫn y nguyên như cũ. Như vậy chúng ta hiểu được hai đặc điểm: Đặc điểm thứ nhất là tâm bình đẳng của Bồ-tát nên không nói lớn nhỏ. Đặc điểm thứ hai là trên pháp tánh, pháp tánh là tánh không thì cũng bình đẳng không có lớn nhỏ. Cho nên đây nói lớn nhỏ đều dung hợp không bị ngăn cách, không bị chật hẹp v.v...

Đến đoạn thứ hai, nếu Bồ-tát đạt đến chỗ bình đẳng tự tại thì lớn nhỏ không còn chướng ngại, nên tòa lớn các ngài hiện thân lớn, ngồi không gì trở ngại hết. Nhưng hàng Bồ-tát mới phát tâm và các vị Thanh văn, còn thấy đối đãi hai bên nên khi thấy tòa sư tử cao lớn, liền nghĩ mình không thể ngồi lên được. Vậy muốn ngồi được phải làm sao? Phải có lòng tin, phải đảnh lễ đức Phật Tu-di Đăng Vương mới ngồi được. Ý nói người đến với đạo, khi chưa đạt được lý viên mãn, phải nhờ lòng tin. Còn người đạt được lý rồi thì tự tròn đầy, khỏi phải nhờ lòng tin nữa.

Ngài Xá-lợi-phất nói:

- Này cư sĩ, thật là chưa từng có! Thất nhỏ như thế mà có thể dung chứa được tòa cao rộng này, như thành Tỳ-da-ly cũng không bị chướng ngại, lại thêm chợ búa thành ấp trong cõi Diêm-phù-đề, và cung điện của chư thiên, long vương, quỷ thần trong tứ thiên hạ cũng không bị ép ngặt.

Ông Duy-ma-cật nói:

- Thưa ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Bồ-tát có pháp môn giải thoát tên là Bất khả tư nghì. Nếu Bồ-tát trụ pháp môn giải thoát ấy, lấy núi Tu-di cao rộng mà nhét trong một hạt cải vẫn không có thêm bớt, núi chúa Tu-di tướng xưa vẫn như cũ mà chư thiên của Tứ thiên vương và Đao-lợi không biết không hay mình bị nhét vào trong ấy, chỉ có những người đáng độ mới thấy được núi Tu-di nhét trong hạt cải, ấy gọi là pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì. Lại dùng nước trong bốn biển cả dồn vào một lỗ chân lông mà không nhiễu loạn các loài thủy tộc cá, trạnh, giải, đà... mà biển cả kia tướng xưa vẫn như cũ, các loài rồng, quỷ thần, a-tu-la... không hay không biết mình bị vào trong lỗ chân lông, đối với chúng sanh này cũng không bị nhiễu loạn.

Núi Tu-di là ngọn núi lớn nhất trong cõi Diêm-phù-đề. Ở đây nói đem núi Tu-di nhét trong hạt cải, nghe quá sức tưởng tượng của mình. Như trên đã nói, tất cả các pháp tự tánh là không, nên tánh không của ngọn núi Tu-di với tánh không của hạt cải không hai không khác. Núi Tu-di lớn là giả tướng lớn, hạt cải nhỏ là giả tướng nhỏ, chứ trên thể tánh không của nó không có lớn nhỏ, nên nói rằng nó dung nạp nhau không chướng ngại.

Thí dụ thứ hai là lấy nước bốn biển cả dồn vào một lỗ chân lông. Ý nghĩa cũng tương tự như trên.

Lại nữa Xá-lợi-phất, Bồ-tát trụ pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì, nắm lấy tam thiên đại thiên thế giới như ông thợ gốm cầm hòn đất trong bàn tay mặt ném ra xa ngoài thế giới nhiều như cát sông Hằng rồi đặt trở về chỗ cũ, mà chúng sanh ở trong đó không hay không biết mình đã dời đổi, đều khiến những người đó không nghĩ rằng mình có đi qua lại, mà tướng xưa của thế giới này cũng vẫn như cũ. Đây là nói về diệu dụng của Bồ-tát. Giống như ông thợ gốm nắm cục đất ném ra xa, Bồ-tát trụ pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì nắm cả tam thiên đại thiên thế giới trong lòng bàn tay, ném ra xa hằng hà sa thế giới rồi đem về để lại chỗ cũ, mà tất cả chúng sanh trong đó cũng không hay không biết gì hết. Tướng nó vẫn như cũ, không đổi thay.

Lại nữa Xá-lợi-phất, hoặc có chúng sanh ưa sống lâu ở đời mà có thể độ được, Bồ-tát liền kéo dài bảy ngày ra làm một kiếp, khiến cho những chúng sanh kia cho rằng mình sống một kiếp. Hoặc có chúng sanh không ưa sống lâu ở đời mà có thể độ được, Bồ-tát liền rút ngắn một kiếp làm bảy ngày, khiến chúng sanh kia thuộc tính cho là bảy ngày. Đây nói về thời gian. Có những người thích sống lâu để tu thì Bồ-tát liền kéo dài thời gian ra, bảy ngày thành một kiếp, mới có thể độ họ được. Còn những chúng sanh không ưa sống lâu ở đời, muốn tu cho nhanh, lâu quá e trở ngại sự tu, Bồ-tát liền rút ngắn một kiếp còn thành bảy ngày để họ dễ phát tâm tu.

Theo thế thường, thời gian đối với chúng ta có dài ngắn nhất định. Chẳng hạn một giờ là sáu mươi phút không có sai khác. Nhưng đôi khi chúng ta cảm thấy một giờ quá dài, cũng có lúc lại thấy quá ngắn. Thí dụ trưởng ban ruộng động viên huynh đệ ra ruộng làm cỏ gấp. Nghe tiếng kẻng xả công tác, trưởng ruộng vì lo công việc gấp nên thấy thời gian qua quá nhanh, mới đó đã hết giờ. Còn huynh đệ làm việc mệt, mỏi tay chân thì thấy sao lâu quá. Hoặc giả có người thân đi xa hẹn hôm nay về, thì ngày đó mình tới lui trông ngóng, thấy thời gian dài lê thê. Như vậy thời gian không cố định, cũng tùy tâm niệm của chúng sanh thấy có ngắn có dài. Sở dĩ không cố định vì nó không thật, do tâm tưởng của chúng sanh mà ra. Thế nên Bồ-tát tùy duyên hóa độ, muốn rút ngắn hoặc kéo dài thời gian cũng được, tùy theo sở thích chúng sanh. Đây là nói diệu dụng của Bồ-tát trong pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì.

Lại nữa ngài Xá-lợi-phất, Bồ-tát trụ trong pháp giải thoát Bất khả tư nghì, đem việc trang nghiêm tất cả các cõi Phật hợp lại thành một nước, để chỉ bày cho chúng sanh. Lại Bồ-tát đem chúng sanh trong các cõi Phật để trên bàn tay phải, bay đến khắp mười phương chỉ bày cho tất cả mà không dời khỏi chỗ cũ. Lại Xá-lợi-phất, những phẩm vật của chúng sanh trong mười phương cúng dường chư Phật, Bồ-tát nơi một lỗ chân lông, đều khiến được thấy. Lại nữa mười phương cõi nước tất cả mặt trời, mặt trăng, sao... nơi một lỗ chân lông đều khiến cho thấy hết.

Lại Xá-lợi-phất, tất cả các gió ở trong mười phương thế giới, Bồ-tát thảy đều có thể hút hết vào trong miệng mà thân không tổn hại, các cây cối bên ngoài cũng không bị gãy đổ. Lại mười phương thế giới khi kiếp hỏa tận, Bồ-tát đem tất cả lửa để vào trong bụng, lửa vẫn cháy như cũ mà không bị tổn hại. Lại ở phương dưới qua hằng hà sa số thế giới của chư Phật, lấy một cõi Phật đưa lên phương trên qua hằng hà sa số thế giới, giống như là cầm cây kim nhọn ghim vào lá táo mà không bị tổn hại.

Lại Xá-lợi-phất, những vị Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì, hay dùng thần thông hiện làm thân Phật, hoặc hiện thân Bích-chi Phật hoặc hiện thân Thanh văn, hoặc hiện thân Đế-thích hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Thế chủ hoặc hiện thân Chuyển luân thánh vương. Lại tất cả các thứ tiếng trong mười phương thế giới, âm thanh bậc trung thượng hạ đều có thể biến thành tiếng của Phật, để diễn nói lý Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Và mười phương chư Phật đang nói những pháp gì ở trong đó, đều khiến được nghe khắp. Này ngài Xá-lợi-phất, nay tôi lược nói năng lực của pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì của Bồ-tát, nếu rộng nói cùng kiếp cũng không thể hết.

Bồ-tát trụ trong pháp giải thoát Bất khả tư nghì, đem tất cả sự trang nghiêm tốt đẹp của các cõi Phật khác hợp về một nước để chỉ cho chúng sanh thấy ưa thích mà phát tâm tu. Lại Bồ-tát đặt tất cả chúng sanh trên bàn tay bay khắp mười phương cho họ xem, rồi về để nguyên chỗ cũ mà họ vẫn không hay biết mình đã bị di chuyển.

Trong một lỗ chân lông, Bồ-tát thấy tất cả những phẩm vật của chúng sanh cúng dường chư Phật trong mười phương. Mười phương cõi nước có bao nhiêu nhật nguyệt tinh tú gom về trong một lỗ chân lông, khiến chúng sanh xem thấy dễ dàng. Mười phương thế giới có bao nhiêu gió, Bồ-tát hớp vào miệng mà thân không hề bị tổn hại, tất cả cây cối bên ngoài không bị gãy đổ.

Kiếp hỏa tận tức là tới thời kỳ hỏa tai, trái đất bị lửa cháy thiêu đốt. Trong kinh Phật nói đến thời kỳ hỏa tai, trái đất bị cháy, lửa cao đến các cõi trời Phạm thiên, nhìn thấy thế giới cháy giống như tim đèn đốt cháy lụn tàn. Nghe thật khó tin! Nhưng khoa học hiện nay đã chứng minh. Trong quả địa cầu của chúng ta có rất nhiều mỏ dầu, vì vậy khi nhiệt độ trái đất tăng cao, dầu sẽ bốc cháy làm tan hoại cả thế giới, đó gọi là kiếp hỏa tai. Khi kiếp tận, lửa cháy ngút trời, Bồ-tát hút tất cả lửa vào trong bụng mà thân không bị nguy hại.

Trong giáo lý đức Phật nói có thập phương thế giới, gồm tám hướng cộng với thượng phương và hạ phương. Hạ phương là phương phía dưới. Bồ-tát có thể lấy một cõi Phật ở hằng hà sa thế giới ở phương dưới đưa lên phương trên cách hằng hà sa số thế giới như cầm cây kim ghim vào một lá cây hay lá táo không có gì khó khăn trở ngại.

Bồ-tát có thể dùng thần thông hiện thân Bích-chi Phật hoặc thân Thanh văn, thân Đế-thích, thân Phạm vương, Chuyển luân vương. Lại nữa, trong mười phương thế giới có bao nhiêu thứ âm thanh thượng trung hạ, Bồ-tát đều có thể biến thành âm thanh của chư Phật trong mười phương đang diễn nói những pháp như vô thường, khổ, không, vô ngã khiến cho chúng sanh hữu duyên đều được nghe. Tóm lại, thần lực giải thoát Bất khả tư nghì của Bồ-tát là thế, nếu nói rộng ra suốt kiếp cũng không thể hết được.

Trong phẩm này có những sự việc chúng ta chưa bao giờ dám nghĩ tưởng đến, thế mà Bồ-tát có thể làm được không ngăn ngại. Vì tâm của các ngài hoàn toàn thanh tịnh bình đẳng nên đối với tất cả pháp đều bình đẳng. Thanh tịnh bình đẳng rồi thì không còn gì chướng ngại chống đối nhau. Trong hoàn cảnh nào, trường hợp nào, việc làm của các ngài, người đời đều không thể hiểu biết được. Thế nên gọi là Bồ-tát trụ trong pháp môn giải thoát bất tư nghì.

Ở đây nêu lên tám thứ Bất khả tư nghì, hay tám thứ vô ngại:

Thứ nhất, lớn nhỏ vô ngại: như núi Tu-di nhét trong hạt cải.

Thứ hai, động tịnh vô ngại: như đem nước bốn biển nhét vô lỗ chân lông mà các loài thủy tộc không hay không biết.

Thứ ba, dài ngắn vô ngại: là thời gian một kiếp kéo ngắn lại thành bảy ngày, bảy ngày kéo dài ra thành một kiếp.

Thứ tư, một hay nhiều vô ngại: tức là tất cả những phẩm vật cúng dường của mười phương chư Phật nhìn trong một lỗ chân lông đều thấy đủ cả.

Thứ năm, y chánh vô ngại: y là y báo, chánh là chánh báo. Kể cả cõi Phật và chúng sanh, dời đi dời lại đều không chướng ngại.

Thứ sáu, nghiệp dụng vô ngại: để chỉ cho tất cả thứ tiếng, tiếng nào cũng chuyển thành tiếng Phật, tiếng nào cũng chuyển thành tiếng pháp.

Thứ bảy, ứng hiện vô ngại: tức là ứng hiện thân. Tùy theo sở cầu cần thân nào thì hiện ra thân ấy.

Thứ tám, pháp âm vô ngại: là Phật nói pháp ở cõi này mà khiến chúng sanh ở các cõi khác cũng đều được nghe được biết.

Tóm lại, Bồ-tát trụ trong pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì là do các ngài sống được với tâm thể bình đẳng, thấy được pháp tánh bình đẳng, nên vận dụng mọi công tác đều không chướng ngại.

Khi ấy ngài Đại Ca-diếp nghe nói pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì của Bồ-tát, ngài tán thán việc chưa từng có, mới bảo ngài Xá-lợi-phất rằng:

- Ví như có người ở trước người mù hiện bày các thứ hình sắc, người mù kia không thể thấy. Cũng lại như thế, tất cả Thanh văn nghe pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì này không thể hiểu rõ. Người trí nghe pháp này, ai mà chẳng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Chúng ta vì sao mất hẳn cội gốc kia, đối với Đại thừa này mình như hạt giống mục! Tất cả Thanh văn nghe pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì này, đều nên phải khóc rống lên, âm thanh chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả Bồ-tát nên rất vui mừng, đảnh thọ pháp này. Nếu có Bồ-tát tin hiểu pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì, tất cả chúng ma không thể làm gì được.

Khi ngài Đại Ca-diếp nói lời ấy rồi, ba muôn hai ngàn thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Qua đoạn văn này chúng ta thấy có những điểm kỳ đặc. Trong hàng đại đệ tử của Phật, tôn giả Ca-diếp nghe pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì liền cảm thông, nên ngài khen ngợi pháp môn chưa từng có. Đến đây chúng ta liên tưởng trong hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa sen lên, cả chúng ngơ ngác, chỉ có tôn giả Ca-diếp chúm chím cười. Cũng vậy, khi nghe pháp môn Bất khả tư nghì, chúng Thanh văn đều ngơ ngác, chỉ có tôn giả Ca-diếp tán thán việc chưa từng có. Như vậy hàng Thanh văn đệ tử Phật, tôn giả Ca-diếp là người thâm nhập được lý cứu cánh của Đại thừa, hay lý Thiền một cách thấu đáo. Cho nên chúng ta mới cảm thông được vì sao ngài Huyền Giác khi đọc kinh Duy-ma-cật ngộ được lý Thiền.

Bấy giờ, tôn giả Ca-diếp hết lời tán thán, dùng thí dụ để diễn tả và nói với tôn giả Xá-lợi-phất những câu nghe thật là cảm động: Như có người ở trước người mù hiện bày các thứ hình sắc, người mù kia không thể thấy. Cũng vậy, hàng Thanh văn là Nhị thừa, tâm còn chấp trước, phân biệt đối đãi, khi nghe pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì này không thể nhận hiểu được, giống như người mù kia không khác. Vì pháp môn này là pháp môn bình đẳng, pháp tánh bình đẳng và tâm tánh cũng bình đẳng, nên hàng Nhị thừa nghe không thâm nhập được. Người trí nghe ai mà không phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mong cầu đạt được pháp môn này, chứ không thể nào dừng ngang đó. Hàng Thanh văn chúng ta vì sao lại cam chịu mất hẳn cội gốc kia. Đối với Đại thừa này mình như hạt giống mục! Tại sao chúng ta không vươn lên? Tại sao chúng ta không thấu đạt mà để cho nó hư hoại đi? Tất cả Thanh văn nghe pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì này, đều nên phải khóc rống lên, làm chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới.

Tại sao nói vậy? Như trong hội chúng, có người đã từng học và hiểu giáo lý Đại thừa, những pháp môn cao siêu Phật dạy, nghe tới đâu hiểu tới đó, nên thấy thích và vui. Và cũng có người mới đến chưa từng học, nghe không hiểu gì hết, mờ mịt tối tăm, lúc đó buồn tủi muốn khóc, rồi tự than thầm vì sao người ta hiểu mà mình không hiểu. Bởi vậy ngài Ca-diếp nói, hàng Thanh văn nghe mà không hiểu, lẽ ra phải khóc rống làm chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới. Còn những vị Bồ-tát nghe rất là vui vẻ, cúi đầu nhận lãnh pháp này. Đó là lời ngài vừa trách các hàng Thanh văn, vừa tán thán các vị Bồ-tát. Ngài nói, nếu các vị Bồ-tát nào tin hiểu pháp môn Bất khả tư nghì, thì tất cả loài ma không làm hại được. Tại sao? Bởi vì tất cả pháp tánh bình đẳng. Tâm bình đẳng thì không có gì cám dỗ và quyến rũ được. Sở dĩ tâm mình còn thiên lệch, còn hai bên, thấy có hay dở tốt xấu, nên bị ma cám dỗ. Nếu sống với chân tâm bình đẳng thì còn gì não hại được.

Khi tôn giả Đại Ca-diếp nói tới đây, thì ba muôn hai ngàn vị thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy ngài phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chưa? Nếu nói chưa thì ngài đâu thể nói lên được những lời như thế. Vậy chúng ta mới thấy, trên tinh thần thâm hiểu giáo lý cao siêu, tôn giả Ca-diếp là người nhận hiểu rất tinh tế.

Lúc bấy giờ ông Duy-ma-cật nói với ngài Đại Ca-diếp:

- Nhân giả, trong mười phương vô lượng a-tăng-kỳ thế giới, những vị làm ma vương, phần nhiều là Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì. Các ngài dùng sức phương tiện để giáo hóa chúng sanh nên hiện làm ma vương. Lại nữa ngài Ca-diếp, mười phương vô lượng Bồ-tát, hoặc có người theo mình mà xin tay chân tai mũi, đầu mắt tủy não, máu thịt da xương, xóm làng thành ấp, vợ con tôi tớ, voi ngựa xe cộ, vàng bạc lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu kha bối, y phục thức ăn uống, những người xin như thế phần nhiều là Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì, dùng sức phương tiện đến thử khiến người kia được kiên cố.

Qua đoạn này cho thấy, sự hiểu biết của chúng ta từ trước đến nay bị đảo ngược. Thường quan niệm của người tu, cho ma là yêu quái, hiện lên những hình bóng đe dọa khiến chướng ngại sự tu hành của mình. Nhưng cư sĩ Duy-ma-cật lại nói, ma vương phần nhiều là các bậc Bồ-tát trụ nơi pháp môn giải thoát Bất khả tư nghì, dùng sức phương tiện thị hiện làm ma vương để giáo hóa thử thách chúng sanh có tu hành kiên cố không. Như vậy người tu đâu nên sợ ma vương phá, vì ma không thật mà chính là Bồ-tát.

Thí dụ có người phát tâm tu hạnh bố thí, Bồ-tát thị hiện ma vương đến xin vàng bạc, nhà cửa, vợ con, chân tay đầu mắt... xem người đó có thực hành bố thí như đã nguyện không? Hoặc có người phát nguyện tu hạnh thanh tịnh lìa sắc dục, Bồ-tát thị hiện ma nữ đến thử thách quyến rũ, xem người đó có bị sa ngã không? Hoặc có người phát tâm tu hạnh nhẫn nhục, Bồ-tát thị hiện ma vương đến quấy nhiễu, xem họ có nhẫn nhục được không? Như vậy nhẫn nhục là sao? Nhẫn trước sự mắng chửi, mạ nhục, làm khổ mình. Đã phát nguyện nhẫn mà không có ai tạo cơ hội cho mình tức tối bực bội thì có gì để nhẫn đâu. Nếu trước những cảnh trái ý nghịch lòng mình vẫn an nhiên tự tại là thành tựu hạnh nhẫn nhục. Như vậy người đến quấy nhiễu, phải xem là Bồ-tát đến thử thách, chứ đừng cho là ma phá thì sẽ không sân hận bực tức.

Chúng ta kiểm lại sự tu của mình, có thật tu chưa? Nhiều khi nói tu mà luôn muốn được như ý, ăn phải ngon, mặc phải đẹp, ở cho sang, đi ra phải có tiền bạc xe cộ, phương tiện đầy đủ... vậy mới tu được, còn gặp trở ngại thì thối tâm không muốn tu nữa! Như vậy đòi hỏi mọi thứ đều như ý thì sao gọi là tu? Tu là chuyển đổi những tâm niệm đang đắm trước theo dục lạc thế gian, xoay trở lại chính mình đừng cho dính mắc nữa. Trước những điều bất như ý, nghịch cảnh nghịch duyên mà vẫn được an lành tự tại, đó là cơ hội tốt để thể hiện được hạnh nguyện của mình. Đó mới thật là tu, còn nếu không có chướng thì hạnh nguyện của mình đến bao giờ mới được thành tựu! Thế nên chỉ có những bậc Bồ-tát trụ trong pháp môn Bất khả tư nghì có thần lực mới kham làm những việc khó làm như thế để thử thách đạo lực của chúng sanh.

Vì cớ sao? Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì có sức oai đức, nên thị hiện các hạnh bức bách, chỉ bày cho chúng sanh những việc khó làm như thế. Người phàm phu hạ liệt, không có thế lực, không thể nào bức bách được Bồ-tát. Ví như voi lớn giẫm đạp, con lừa không thể chịu nổi, ấy gọi là cửa phương tiện trí tuệ trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì của Bồ-tát.

Lâu nay chúng ta lầm tưởng mình tu ít phước đức kém nên gặp nhiều chướng nạn. Những vị đạo cao đức trọng lẽ ra phải thoát nạn tai. Nhưng theo đây nói, tu càng cao thì gian nan trắc trở càng nhiều, vượt qua được mới biết hạnh nguyện có kiên cố hay không. Người phát tâm tu hạnh Bồ-tát, nếu gặp chướng duyên chớ nên thối chí nản lòng. Phải biết đó là những vị Bồ-tát trụ pháp giải thoát Bất khả tư nghì thị hiện làm ma vương đến não loạn quấy nhiễu, làm cản trở bước tiến của người tu. Như vậy tu càng cao thì thử thách càng mạnh để giúp người sớm thành tựu bản nguyện. Như voi lớn có sức mạnh giẫm đạp, sức lừa yếu đâu thể chịu nổi. Cũng vậy, Bồ-tát chỉ thử người có đạo lực thâm hậu, còn người sức tu yếu không thể chịu nổi những thử thách đó, gặp việc họ dễ thối tâm. Thế nên, ai tưởng tu lâu hết chướng là hiểu lầm. Nhưng chướng có thật là chướng không? Chẳng hạn, đức Phật lúc tu hạnh Bồ-tát nếu không có người thử, làm sao ngài thành tựu được Phật quả. Cho nên những thử thách đó là hỗ trợ, đưa mình tiến lên, chứ không phải dìm mình xuống. Chỉ tại sức tu còn yếu dở nên mới thấy là chướng. Nếu ngay đó vượt qua được thì bước tu sẽ tiến hơn. Vậy thì chúng ta phải xem chướng đó là ân, là phương tiện lợi sanh của Bồ-tát.

Trong sử đức Phật, có ghi Đề-bà-đạt-đa là anh em chú bác, cũng là đệ tử xuất gia của Phật. Ban đầu ông tu hành tinh tấn, về sau chính ông là người làm hại và cản trở việc hành đạo của Phật. Nhưng những bản kinh sau Phật nói, chính Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức, là người ân, giúp Phật chóng thành tựu đạo quả. Như vậy tại sao chúng ta không thấy những huynh đệ làm chướng làm khó khổ mình chính là thiện hữu tri thức, là Bồ-tát nghịch hạnh, chớ nên nghĩ xấu cho họ là người không có đạo đức. Được như thế thì đâu có buồn phiền giận trách, mà còn cám ơn họ. Như vậy mới thấy tinh thần Đại thừa giúp chúng ta có cái nhìn thâm sâu, thấu triệt để thêm sức mạnh. Tu phải có sức chiến đấu thắng mình, thắng mọi nghịch cảnh mới được an vui. Phải thấy mọi người quanh ta đều là người tốt, là Bồ-tát chớ có xem thường. Còn nếu thấy mọi người chung quanh là ma, phá mình hoài, thì chính người đó đã là ma. Gặp những khó khăn đến với ta là cơ hội tốt, nên vui vẻ mà tiến, chứ không chán nản thối lui. Học phẩm này chúng ta có thêm sức mạnh vững bước trên đường tu.

Mục Lục