Kiến Tánh Thành Phật Giảng Giải (2000)
A. Chánh Văn - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 3)
Hỏi: Hai ngôi Phật và pháp, ngôi nào trước, ngôi nào sau? Nếu nói Phật có trước, Phật này nương theo pháp nào mà được thành đạo nên gọi là Phật? Nếu bảo pháp có trước, pháp này do Phật nào nói nên gọi là pháp? Lại hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau? Đáp: Phật vốn có trước pháp, cũng có sau pháp. Hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau? Đáp: Nếu y cứ Chân như thật tế, thì chân Phật không hình, tròn đồng thái hư, đối diện ở trước mắt, lặng sáng không gì trên, đây là Phật thật không hình tướng, Phật có trước. Lại nói: Ta có một thân Phật, Âm: Ngô hữu nhất khu Phật, Nên Thiền sư Xuyên Lão nói: “Phật vàng chẳng độ lò đúc, Phật gỗ chẳng độ lửa, Phật đất chẳng độ nước.” Ba Phật hình nghi chẳng phải chân, Âm: Tam Phật hình nghi tổng bất chân, Hỏi: Thế nào pháp có trước? Đáp: Nếu y cứ Pháp tánh tịch diệt, thì chân kinh không quyển, rỗng trơn bặt dấu vết, nghĩa ấy như sao trời sáng rực, lặng lẽ quên lời, biển chân giáo sóng bủa mênh mông, bao la pháp giới, lặng lẽ sáng soi tự tại, suốt tột xưa nay, dọc ngang khắp trời đất, đây là chân kinh không quyển, pháp có trước. Nếu y cứ pháp tịch diệt, đó là pháp trước Phật sau. Kinh nói: Các pháp từ xưa nay, Âm: Chư pháp tùng bản lai, Tất cả chư Phật đều nhân nơi Pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Nên kinh Lăng-già nói: “Lìa tướng văn tự, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, dứt mọi hí luận, mới có thể chứng Phật.” Nên biết, Pháp tánh tịch diệt là thầy chư Phật, đây là pháp trước Phật sau. Vì vậy kinh nói: “Có Phật không Phật, Pháp tánh vẫn thường trụ. Có kinh không kinh, Pháp thân vẫn hằng như vậy.” Một pháp mà có ngàn tên, ứng với duyên mà lập hiệu, chân Phật, chân kinh, Pháp tánh Pháp thân vốn đồng một thể, không có tướng khác. Nếu có người tuệ lớn, trí bậc thượng, chóng ngộ chân không, Pháp tánh như vậy, chân Phật không hình, chân kinh không quyển, chân đạo không lý, chân pháp không lời, sẽ sớm được viên chứng quả Bồ-đề. Pháp thân thanh tịnh Phật vô tướng, Âm: Thanh tịnh Pháp thân vô tướng Phật, Nếu luận về pháp văn tự đó là Phật trước, pháp sau. Vì sao? Bởi chư Phật lúc tột ban đầu tu hành, là tự chứng Căn bản trí tuệ, Pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Đến khi thành Phật xong, mới nương nơi Hóa thân trăm ức ở cõi biến hóa, vận dụng thần thông, thị hiện mọi thứ, sau đó nói rộng các thứ ngôn từ, các thứ thí dụ, các thứ cơ quan, các thứ nghĩa lý, sắn bìm lá bối, kết tập văn tự, nương sự mà đặt tên, kinh này luận nọ, sắp xếp thứ tự rồi gom lại làm từng quyển, thành tạng kinh mười hai bộ, rồi để lại lời dặn dò, lưu truyền ở đời, mở rộng phương tiện chỉ đường, chỉ lối mà tiếp hóa chúng sanh. Chúng sanh ban đầu nương theo kinh giáo mà xuất gia học đạo, minh tâm kiến tánh, thành công chứng quả, đây là Phật trước pháp sau. Nếu người lượng cao, đủ đại trí tuệ, liền chóng ngộ trí tự nhiên, không Phật, không kinh, không thầy, Pháp thân vốn rỗng lặng, cùng Phật bình đẳng, quán Thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy. Bởi, quán Thật tướng của thân, tức là Pháp thân rỗng rang diệu hữu, Phật và ta đều vô tướng, trong lặng nhiệm mầu, nhất như, tròn đồng thái hư, chân không bình đẳng. Dù học ngàn kinh muôn luận, rốt ráo cũng không vượt ngoài lý này, cuối cùng là viên chứng Phật pháp thân. Pháp giới bao trùm Cực Lạc đường, Âm: Pháp giới hàm dung Cực Lạc đường, Kinh nói: “Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng.” Ứng Phật, Hóa Phật, ba mươi hai tướng, trăm ức hóa thân, cho đến các duyên cảnh giới trang nghiêm, tất cả Như Lai thần thông thị hiện, quyền bày phương tiện tiếp dẫn chúng sanh, đều chẳng phải lý thật. Bởi lý rốt ráo chân thật tức là hư không, hư không tức là Như Lai, Như lai tức là không tịch, không tịch tức là Pháp thân, Pháp thân tức là Phật thân. Đây chính là thân Phật, người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành. Ứng, Hóa chư tôn chưa ra đời, Âm: Ứng, Hóa chư tôn vị xuất tiền, Vì vậy trong Chứng Đạo Ca của Đại sư Vô Tướng ở Vĩnh Gia nói: Rành rành thấy không một vật, Âm: Liễu liễu kiến vô nhất vật, Chư Phật hiện ra đời là ứng hóa chẳng phải thật, chúng sanh huyễn khởi có danh tướng đều hư dối, phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt, tỏ ngộ Phật sự không hoa. Thế nào là Phật sự không hoa? Dạy rằng: Tướng không là Thật tướng, thân không tức Pháp thân, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt, nếu gọi là một vật, lại chẳng trúng lý. Có nói đều thành báng, Âm: Hữu thuyết giai thành báng, Chư Phật giáo hóa chúng sanh, ví như bà dạy cháu, tùy cơ mà ẩn hiện. Phương tiện có nhiều thứ. Cho nên nuôi cơm là thương con trẻ, nước uống là ngừa nó khát. Gượng gọi tên là Phật, là Tổ, là Thiền tông, là chỉ thú, là hư không Pháp thân, là Thật tướng vô tướng. Thật tướng vô tướng, là vượt lên tên gọi và hình tượng, thể vốn vô sanh, nhưng vì gượng nêu tên để chỉ bày cho người sau. Vì vậy nói: Pháp thân lồ lộ, Thật tướng rành rành, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, bao gồm cả trời đất, suốt thấu cả núi sông, đối diện ngay trước mặt, chân thật rỗng rang mênh mông, viên dung cả pháp giới, trong lặng như như, không tướng không tên, không lời không nói, chẳng sanh chẳng diệt, không đến không đi, ứng vật hiện hình như trăng trong nước. Tùy duyên ứng ra hình chất, thì mượn sắc mà thành hình; nương theo loại mà hóa thân, thì quán âm thanh nói rộng giáo pháp. Nói năng bày tỏ nơi lá bối, là chân ngôn mà chẳng phải chân ngôn; tướng hiển hiện nơi hoa sen, nếu có tướng thì đâu từng có tướng. Xưng Phật xưng Tổ, trị kẻ dưới mà tạm mượn tên; rất diệu rất huyền, tối thượng vô tướng; thường lạc ngã tịnh, tột lý mà chứng biết; Pháp thân vô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tên Phật hiệu Tổ cũng là giả danh; Pháp tánh chân không, trọn không một vật. Người học tham Thiền thấu đến tột cùng, nên nói đã thấu đến chỗ ruộng đất cố hương, đã được chỗ an thân lập mạng, chỗ thường lạc ngã tịnh, chỗ sanh tử chẳng dính dáng. Ruộng đất cố hương, là chỗ rỗng thênh bát ngát, đến ruộng đất ấy, thì một chữ Phật cũng là vật ở bên ngoài căn trần. Như vậy, Phật còn không đắm trước, huống nữa là Chân như Phật tánh, Bồ-đề Niết-bàn, chỗ nào có được? Thấu tột, thấu tột rành rành không một vật, thì không phàm Thánh, không thứ lớp, không danh tướng, không thềm bực, không số kiếp, không giờ khắc, không tôn ti, không xưa không nay, không được không mất, không một không hai, không phải không quấy, không tịnh không loạn, không sanh không tử, không Phật không chúng sanh, không bờ mé không làm ra, không tu không chứng; không thường không trụ và chẳng không thường trụ, vốn không Niết-bàn, chẳng phải chẳng không Niết-bàn, vốn không thành Phật và chẳng không thành Phật; cũng không tỏ rõ trong cái tỏ rõ, cũng không trong lặng trong cái trong lặng, cũng không cái thể trong lặng, cũng không cái dụng trong lặng; cũng không thế ấy nói cái trong lặng, cũng không thế ấy thọ cái trong lặng; ba cái không đều không, chỉ một cái trong lặng tròn đầy, mà một cũng chẳng một, nguồn trở lại nguồn. Nên biết trong không vốn chẳng hoa, Âm: Tu tri không lý bản vô hoa, * Vốn tự nhiên thành chẳng tạc điêu, Âm: Bản tự viên thành bất giả điêu, * Giơ hoa niêm cú gạt người thôi, Âm: Niêm hoa niêm cú cộng tha man, * Theo rỗng tiếp vang đều chẳng thật, Âm: Thừa hư tiếp hưởng giai phi thật, * Trên đảnh Tỳ-lô vui quá chừ, Âm: Tỳ-lô đảnh thượng lạc vô dư, * Chư Tôn ứng hóa thảy vọng duyên, Âm: Ứng hóa chư Tôn đẳng vọng duyên, Pháp kệ: Xem phá sắc tướng của Tam giáo Chẳng Nho chẳng Phật cũng chẳng Tiên, Pháp kệ: Lãm phá Tam giáo sắc tướng Phi Nho phi Phật diệc phi Tiên, Hỏi: Thế nào là trên trời dưới đất, trong cõi nhân gian, quần sanh muôn loài, hết lòng cung kính, tôn xưng chư Phật, gọi là Giác Hoàng? Đáp: Phật là bậc thầy trong ba cõi, cha lành nơi bốn loài, đức to vòi vọi, hùng tôn bát ngát, quả chứng ba vô số kiếp, ân thấm cả chín loài, ba thân tròn hiển, mười hiệu cùng bày, đến Thánh thì làm vua trong muôn Thánh, làm Phật thì sáu thông tự tại, chín loài tối tăm đều được thấm nhuần, ba cõi đều tôn quí, đại bi đại nguyện, đại lực đại hạnh, khắp tiếp cả trời người, sang hèn đều dẫn dắt, ứng hóa trên trời, cõi người, cứu độ cõi này phương khác, quần sanh đều lợi lạc, tất cả đều nương về, vì vậy tôn Phật là “Giác Hoàng”. Bởi vì sao? Vì nhân tu rộng lớn nên trăm ngàn công đức đã trang nghiêm, quả chứng chí tôn thì ở trên cả trăm ức hóa thân. Đại nguyện của chư Phật, khi ra đời thường thị hiện làm vua. Làm Phật thì ba cõi đều tôn kính, làm vua thì muôn nước đều qui phục, là thảy do công phu tu hành từ nhiều kiếp, và nhân duyên phước tuệ, lo cứu giúp cho mọi người. Lại hội lý rằng: Giác là rất to, rất rộng, Pháp tánh tròn sáng, chánh giác Bồ-đề. Hoàng là rất tôn, rất quí, ngôi vị độc tôn hết mức, là bậc đế vương trang trọng. Trong các kinh vẫn thấy Phật Phật hiện làm vua, việc xưa cũng truyền nghe vua vua thành Phật. Nên biết, chư Phật số cát sông Hằng, mỗi vị cũng thường thị hiện làm thân đế vương. Và nên biết, ở cung vua mà ứng ra đời trong cửa Phật, thì nước Việt lại thấy triều Lê, niên hiệu Chính Hòa, Đức Giác Hoàng trí Phật thiên nhiên, biển tuệ tròn sáng, trang trọng ngự giữa đài hoa mà hiển dương Phật pháp. Cây bồ-đề lớn cao, bóng che mát cả mười phương, hoa ưu-bát nở ra, sáng rực đến muôn đời. Quần sanh đều được độ, khắp nơi thấm ơn sâu, đời tôn xưng là chân Phật Hoàng. Rỗng toang Phật tánh tợ hư không, Âm: Hoát nhiên Phật tánh đẳng hư không,
Mục Lục
|
Kiến Tánh Thành Phật Giảng Giải (2000)
|
A. Chánh Văn - III. Kệ Kiến Tánh (Đoạn 3)