Thiền Tông Việt Nam
Phụng Hoàng Sách Tấn Tập 1 (2005)
Câu Chuyện Buổi Chiều

Thầy thương tất cả tụi con cũng như thương hết mọi người. Lý do gì Thầy thương?

Nếu chúng ta thương người vì người đó đói thì người no mình không thương, thương người nghèo thì người giàu không thương, thương người tật nguyền thì người lành lặn không thương. Nói tóm lại, nếu chúng ta thương người trong một phạm vi nào đó thì lãnh vực ngược lại mình không thương. Như vậy tình thương đó bình đẳng chưa? Nếu thương người nghèo khổ, người quan quyền không thương, tức là không bình đẳng. Bây giờ phải làm sao giống tình thương của Phật mới là bình đẳng.

Thầy thương tất cả tụi con cũng như mọi người, vì ai cũng có kho báu mà quên. Có kho báu mà quên để phải đi ăn mày đều là người đáng thương, dù cho đó là ông Tổng thống hay người cùng đinh. Cho nên Thầy hết lòng nhắc nhở ngày này qua tháng nọ, chừng nào họ nhận được kho báu mới thôi. Tụi con có còn là cùng tử không?

- Dạ, còn.

Bởi vậy nên Thầy nói hoài chưa thôi. Có kho báu mà không nhận, không biết, để làm kẻ ăn mày đi xin đầu này đầu nọ, sao không thương được! Vì vậy tình thương của Phật và Bồ-tát là tình thương bình đẳng, không nói người này khổ mới thương, kẻ kia sướng không thương. Ai có kho báu mà quên không biết nhận đều thương cả. Nếu họ không có thì giả sử có thương cũng không biết làm sao. Còn họ có kho báu thật sự, mình thấy biết rõ ràng mà không chỉ cho họ nhận, đâu có đành lòng! Tất cả tụi con có là người đáng thương không? Chừng nào tụi con giàu cười ha hả, chừng đó Thầy hết thương, Thầy lo cho người khác.

Sau này tụi con tập thương như vậy mới là bình đẳng, bởi vì ai cũng có kho báu mà không chịu nhận, lang thang chạy đầu này góc kia. Người đời thấy danh lợi tưởng là quí, giả sử ngồi chức to, ít bữa người ta đẩy xuống liền khổ, đâu có gì bền vững? Ở địa vị cao được đãi đằng liên miên, ăn nhiều quá cũng bệnh. Những thứ tạm bợ tưởng là vui, còn kho báu lại bỏ quên không biết, để rồi suốt đời lang thang. Ðó là những người đáng thương, dầu ở địa vị nào cũng là người đáng thương. Chừng nào nhận ra được mình có kho báu mới thật an ổn. Như vậy tụi con là bần cùng hay phú gia tương lai?

- Dạ, là con ông trưởng giả mà còn đi lang thang!

Bỏ nhà đi là bần cùng rồi. Con ông trưởng giả thì phải biết trở về nhà để lãnh sự nghiệp. Nên trong kinh Pháp Hoa nói Khai Thị Ngộ Nhập: Khai là vạch ra.Thị là chỉ cho thấy mỗi người đều có sẵn kho báu. Nhận ra kho báu là ngộ. Nắm được của báu trong tay là nhập.

Bây giờ tụi con tới đâu rồi? Thầy phải nói hoài là để chỉ cho biết, chừng nào tụi con thấy được Thầy mới an lòng. Khi nhận được rồi, kho báu là của tụi con, tha hồ tiêu dùng.

Như vậy, trọng tâm của đức Phật là chỉ cho chúng sanh giác ngộ. Giác ngộ là nhận ra kho báu nhà mình, còn mê là có của mà quên. Vì mê nên làm cùng tử lang thang đi ăn mày, khi nhận được kho báu rồi, có đầy đủ tất cả, đó là Bồ-tát. Chúng sanh ai cũng có mà không nhận, nếu biết nhận liền được sung sướng. Tụi con ở đây mấy năm nay khai thị có ngộ chưa? Ngộ tức là thấy rõ mình có kho báu. Thầy không học thuốc mà là thầy thuốc. Những người mù Thầy cho thuốc được sáng mắt. Mình có kho báu sờ sờ trước mắt, ngay dưới gót chân mà không thấy, có phải mù không?

- Dạ, mù.

Trong kinh A-hàm, Phật giảng cho các vị ngoại đạo và cư sĩ, họ nghe rồi sáng ra và trình Phật là họ giống như người mù được sáng mắt. Như vậy mới thấy thuốc Phật hay. Chúng ta sẵn có mà không biết, biết các thứ khác mà không biết được cái thật mình. Ðang là người mù, được chỉ cho thấy thành sáng, vậy thuốc đó hay không?

Thế gian có thuốc hay nhất cũng chỉ giúp cho con người sống trăm tuổi, còn thuốc của Phật Tổ, Thầy chỉ cho tụi con uống thì sống hoài không chết, như vậy hay cỡ nào? Sống trăm tuổi làm sao sánh với cái không có thời gian, vô lượng vô biên. Cho nên, tu quí ở chỗ tìm ra cái sẵn có của mình mà lâu nay bỏ quên. Ðược cái đó rồi tụi con giàu vô số, là trưởng giả, là người sáng mắt, là người sống dai nhất trên đời.

››*

- Ðố tụi con, chúng ta tu có phải là ích kỷ không?

Ích kỷ có hai mặt. Một là chỉ biết có mình, lo cho mình, muốn hưởng được mọi thứ nên những gì bên ngoài đều gom về mình, không nghĩ tới người khác, đó là tầm thường, ích kỷ. Còn chúng ta tu ích kỷ là không làm lợi gì cho ai, chỉ đem hết tâm tư, nghị lực để phản quan, phăng tìm cho ra cái gì là thật mình. Như vậy, hiện tại thì dường như ích kỷ, nhưng sau khi nhận được cái chân thật rồi sẽ làm lợi ích cho tất cả mọi người.

››*

- Ðịnh nghĩa ma là cái gì?

Trong nhà Phật nói những gì làm trở ngại, khó khăn, làm thối tâm tu của mình gọi là ma. Tham ái có làm mình thối tâm không? Tán loạn có làm thối tâm không? Tất cả những cái đó gọi là ma, khi chúng ta bị mấy con ma đó quấy nhiễu thì trở ngại sự tu.

››*

Bây giờ Thầy kể chuyện xây cất chùa Lân cho tụi con nghe. Hôm trước có một bản vẽ mô hình chánh điện cất theo lối chữ Ðinh, cột rất nhiều, phía sau là nhà Tổ. Tổng thể chùa hình chữ Quốc nên tối om. Thầy không chịu, nhưng bản vẽ đó Sở Văn hóa đã ký rồi nên bây giờ mình phải họp để bàn lại.

Tụi con phải hiểu tinh thần chùa Thiền tông, chùa Tịnh độ và chùa Mật tông khác nhau thế nào. Chùa Thiền phải rộng rãi, bên trong sáng, ở giữa thờ đức Phật cầm cành hoa sen, gọi là “niêm hoa vi tiếu”. Thờ một đức Phật thôi, nếu có thờ thêm thì bên trái là ngài Văn-thù, bên phải ngài Phổ Hiền, là hai vị Bồ-tát tượng trưng cho trí tuệ và hạnh nguyện. Ðó là tinh thần của nhà thiền.

Còn chùa Tịnh độ thờ đức Phật Thích-ca hoặc Phật Di-đà, một bên là Bồ-tát Quan Âm, một bên là Bồ-tát Ðại Thế Chí. Ðức Quan Âm tượng trưng lòng từ bi, Bồ-tát Ðại Thế Chí là ý chí mạnh mẽ. Vì đức Phật Di-đà từ cõi tịnh đi xuống cõi uế trược để độ chúng sanh nên phải có tình thương và ý chí. Có nơi thờ Tam Tôn: Ở giữa là Phật Thích-ca, bên trái Phật Di-lặc, bên phải Phật Di-đà, gọi là ba đức Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

Chùa Mật tông thờ Phật rất nhiều, đủ các vị thần, chùa cũng phải âm u. Tại sao vậy? Vì theo tinh thần Mật tông Phật có tánh cách linh thiêng, huyền bí, nên phải tạo khung cảnh ảo huyền để tăng trưởng lòng tin. Mỗi câu chú là một vị thần hộ chú. Người tới chùa Mật thường để cầu nguyện chư Phật, chư Thần hộ trì, ban phước. Vì vậy khi cất chùa phải biết tông phái để thiết kế thích hợp.

Nhưng gần đây, từ thế kỷ mười tám, các chùa miền Bắc, miền Trung và trong Nam đều chịu ảnh hưởng của Nhị Khóa Hiệp Giải. Hai thời khóa tụng soạn theo pháp tu của đời nhà Thanh, Trung Quốc. Nhà Thanh thuộc bộ tộc Nữ Chân, sau lấn chiếm và thống nhất toàn lãnh thổ Trung Quốc, họ nương vào Lạt Ma giáo để thực hiện tinh thần kiến quốc, chánh sách thống trị Mông Cổ và Tây Tạng. Vì vậy thời này Mật tông thạnh hành. Hai thời khóa tụng: Tối tụng kinh Di-đà, khuya tụng chú Lăng Nghiêm, hoặc Ðại Bi, Thập chú. Trong buổi tụng kinh Di-đà có chú Vãng sanh, còn cầu siêu tụng thêm chú Ðại Bi. Như vậy nghi lễ hai thời khóa tụng, hai phần ba là Mật, chỉ một phần ba là Tịnh. Cho nên chùa ở ngoài Bắc rất nhiều nhưng âm u.

Còn bên Nguyên thủy, chùa chỉ thờ một Phật Thích-ca vì Nguyên thủy cũng tu thiền. Ðó là nói tinh thần các tông phái để tụi con biết, mai kia ra cất chùa thiết kế cho hợp lý.

››*

Thầy nghĩ người tu chúng ta đừng có lo đói thiếu, đừng nên mưu tính gì hết, cứ thật thà tu thì mọi việc đều tốt. Chỉ khi mình không thật tu thì Tam Bảo không gia hộ.

Hôm trước có mấy đứa học sinh chết đuối dưới hồ Tuyền Lâm. Trong đó có Linh Thơ về nhập mẹ nó, mẹ nó đi coi bói cho là ma quỉ dựa, nhưng nó nói: “Mẹ không chịu nghe lời con, con ở chùa khỏe lắm, nhưng con đi xa thì phải xin phép hộ pháp, bây giờ mẹ đi lung tung làm sao con theo bảo vệ mẹ được?” Cho nên với con mắt phàm chúng ta không thể thấy hết, chỉ thấy trong giới hạn mà thôi. Tụi con tu đàng hoàng thì hộ pháp luôn ủng hộ, đừng có phóng tâm bậy bạ mà long thiên hộ pháp quở mình. Các ngài ở gần nên thấy tâm mình. Ráng tinh tấn tu, đừng có tâm lăng xăng, lộn xộn. Quyết chí tu thì mọi việc đều tốt.

››*

Tụi con thấy thân này là cái gì, chỉ là một đống xương ráp lại, rồi đắp vô một mớ thịt, mỡ, máu..., ở ngoài bao một lớp da. Như vậy gọi là thân. Bây giờ cái mặt đẹp đó xẻo một lớp da thì còn đẹp nữa không? Không có gì đẹp hết, vậy mà nói mặt cô này đẹp quá, mặt cô kia xấu quá, lóc một lớp da rồi thì ai cũng như ai.

Thân này mai mốt tắt thở đem ra ngoài đào đất chôn, cỡ chừng ba bữa hôi rình có ai dám đến gần không? Vậy thật ở chỗ nào? Còn khỏe mạnh chạy giỡn vui đùa, ai đụng một chút đã nổi nóng, chết rồi thì sao? Bởi vậy cuộc đời là tạm bợ, thế gian không biết, giành giật tự làm khổ, tất cả đau khổ đều từ gốc mê. Cho nên trong nhà Phật nói tất cả nghiệp chướng lôi kéo mình trong đường khổ, không gì bằng mê. Vì vậy người tu Phật phải giác, giác thì hết mê, hết mê là hết đi trong đường khổ.

Mỗi lần Sư ông giảng đều nói tới nói lui, nhắc nhở hoài, vậy mà vẫn xưa sao nay vậy, không có bỏ gì hết phải không?

- Dạ, có bỏ chút chút.

- Bỏ chút chút gì mà con chó nhỏ chết còn khóc!

- Thưa Thầy đó là bất giác, trong bất giác mình chưa làm chủ nên quên.

- Tụi con thấy, khi mình hiểu được lẽ thật của đạo rồi thì mới sống đúng tinh thần tu, nghĩa là đi ngược dòng thế gian, phải không? Người ta nói quấy mà mình vẫn cười thì mới là đi ngược dòng. Còn người ta nói quấy, mình tức lên đùng đùng thì ngược cái gì? Bởi vì nói quấy nói phải là hai cái không thật. Biết rõ như vậy liền thôi. Còn như người ta nói phải mình vui, nói quấy bèn giận, vậy là tụi con có thấy lẽ thật không? Tu là đi con đường giải thoát khác với thế gian. Cho nên Phật pháp rất khó đối với người thế gian. Làm cái gì ra tiền, làm cái gì được phước nhiều, hoặc ủng hộ họ làm ăn phát tài thì dễ. Còn nói thẳng lẽ thật khó trăm phần. Vậy mà tụi con vẫn hiểu được, Thầy nói mấy năm nay, nghe hoài không ngán cũng giỏi.

- Thưa Thầy hành mới khó, hiểu thì cũng tạm tạm.

Tụi con thấy Thầy vui vẻ, ít quạu quọ là tại sao? Hơn thua phải quấy là trò đùa nên cái gì cũng cho qua hết. Nếu không vậy thì lúc này cái trán Thầy nhăn mấy nếp rồi. Ðủ thứ chuyện phải lo, phải sắp đặt, nhưng tới đâu thì làm tới đó. Ở thế gian, trong một gia đình lo năm bảy người là hết hơi hết sức rồi. Còn Thầy lo Thiền viện bên đây, Thiền viện bên kia, cử người đi không biết làm có tốt không. Nhưng thôi cứ cử đi, khôn nhờ dại chịu, hơi đâu lo!

Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử từ hôm khởi công tới nay tốn cũng nhiều nhưng Thầy cứ mặc, làm sao thì làm. Thầy cứ ngồi ở đây. Chớ người ta như vậy là chạy ngược chạy xuôi lo lắng. Hôm trước có một Phật tử hỏi Thầy sở phí cất ở ngoài đó bao nhiêu, Thầy nói phỏng chừng hai tỷ. Nhưng bây giờ bản vẽ tính là sáu tỷ. Tiền bươi đâu ra? Tiền đó không ai có trách nhiệm hết, chỉ mình Thầy có trách nhiệm thôi.

Những khi đi giảng, Thầy đâu có hề than thiếu tiền, cứ giảng bình thường. Vậy mà vẫn có tiền cất chùa, đó là cái đặc biệt. Người hay lo thì bóp đầu bóp trán mà lo, chạy sao cho có đủ. Còn Thầy, kể cả ra nước ngoài, Thầy đâu có nói “Tôi đang xây Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, ai có khả năng đóng góp thì phụ tôi”. Chưa bao giờ Thầy kêu gọi, giảng cứ giảng, cứ thật thà cho nên Tam Bảo gia hộ.

Tụi con thấy ở đây Thầy có tính làm gì ra tiền không? Có trồng cây bán chút ít nhưng không đủ cho tụi con ăn nước tương nữa. Mà sao có tiền nuôi hoài không thiếu mới ngộ. Vậy mới thấy có phước, cứ quyết chí tu và thật tâm lo cho đạo là không sợ thiếu.

Nhiều khi đi ra nước ngoài, bộ đồ Thầy mặc còn tốt quá chừng, cái áo ấm cũng không tệ, vậy mà Phật tử cứ chạy đi sắm, hối may gấp trong một ngày cho rồi, cái này không vừa may cái khác. Phải chi Thầy rách rưới thì nói tội nghiệp, lo sắm cho Thầy. Chưa từng than gì hết mà người ta lo như vậy, thấy tội! Bởi vậy Thầy nói Thầy là ăn mày chúa.

Phước không thể lường trước được, không thể tính toán làm cái này cái kia mà được. Tự mình tu, làm lợi ích cho nhiều người thì có phước. Cũng như có người đặt câu hỏi, bãi đậu xe ở đây không thâu tiền, mướn mấy người nhân công, rồi nhà vệ sinh, các thứ... tiền ở đâu ra, không có ai trả lời được. Mỗi tháng tối thiểu ba nhân công làm dưới đó, lấy tiền đâu ra trả lương đây? Lại còn tiền lặt vặt, mà sao tháng nào cũng đủ hết, cũng no ấm hoài, không nghe Thầy than.

Bởi vậy người đời họ không hiểu nổi. Cứ chân thật mà tu, đừng tính toán. Nhiều người nghĩ mình phải ra làm kinh tế tự túc, nhưng khi làm tự túc thì kẹt trong việc làm, cũng phải tính toán lợi hại. Còn ở đây không có tự túc, không tính lợi hại. Không tính mới có thời giờ tu, còn ra lo tự túc hết giờ tu. Hiểu như vậy mới biết tại sao Thầy chủ trương chỉ tự túc phần nào thôi.

Tụi con tu làm sao ngày nào tháng nào cũng tu đều đều, đừng bỏ phế, tự sống với chính mình, ngày một tiến bộ hơn, bớt tham, sân, si. Ðó mới là thành công của mình, chớ không phải làm ra nhiều tiền là thành công. Người tu của mình bây giờ hay đặt nặng việc làm ra nhiều tiền. Không riêng ở đây, mà mấy Thiền viện dưới kia Thầy cũng chủ trương chỉ trồng cây trồng rau. Nội tiền xăng dầu để chạy máy tưới, rồi phân bón, rốt cuộc đâu cũng vào đó, không thấm đâu hết. Bởi vậy người tu mà tính toán làm ăn khó lắm.

Thầy bảo đảm với mấy Thiền viện dưới đó là chỗ nào hết gạo cho Thầy hay. Thầy chỉ lo gạo còn các thứ khác chỗ đó tự lo. Nhưng Thầy thấy ít có viện nào thiếu gạo. Ở đây gần hai trăm, Thường Chiếu gần hai trăm, Viên Chiếu một trăm, rồi Linh Chiếu, Phổ Chiếu, Huệ Chiếu cũng đông, vậy mà không hụt. Thế mới biết tu hành là cái gốc để Phật tử cảm thông mà ủng hộ. Như vậy, mình ngồi yên tu mới có phước đức, còn chạy ngược chạy xuôi lo cho có tiền thì tu không được. Tu không được tức phước không có. Cứ lo làm hoài, là tu không tiến chút nào. Vậy tụi con mới hiểu làm sao cho phước nhiều.

Ở đây có nhiều đứa lo tính toán, sau có chùa có thất làm tự túc để tu. Tính như vậy nhưng càng tự túc càng trói buộc. Thí dụ tụi con buôn bán cái gì đó để kiếm lời, bán đắt quá thì làm hoài, làm hoài không có giờ tu. Thấy như lương thiện, nhưng không lợi cho đường tu. Thầy thường nói, ai nghĩ tự túc để sống tu là trái với bản ý của Phật.

Ðức Phật chủ trương đi khất thực để gieo duyên với chúng sanh. Nếu hồi xưa Phật dạy chúng ta làm rẫy làm ruộng để tự túc thì bây giờ mình làm là phải. Nhưng Phật bảo phải đi khất thực. Mà khất thực giờ nào? - Giờ cơm trưa. Mười một giờ người ta ăn thì chừng mười giờ đi khất thực. Người ta không chuẩn bị trước phần ăn, nhưng khi Phật tới thì họ chia sớt bớt. Mình thấy hơi bất nhẫn nhưng chính đó là phước lớn của người thí chủ: chia phần ăn chớ không phải sắp đặt trước.

Ði khất thực là gieo duyên, người ta sớt cơm cho mình ăn để sống mà tu. Mình lãnh thọ của họ nên phải tìm cách độ họ, đời này chưa được thì đời sau. Vậy thì mới có duyên với nhau. Nếu nay người tu tự lo làm, tiền mình mình ăn thì có duyên với ai đâu. Nếu có duyên là có với mấy người thương mại thôi, phải không?

Như vậy, đức Phật dạy mình nhận của thí chủ ăn rồi tu. Vì nhận là thiếu nợ nên phải ráng tu cho xứng đáng. Thứ hai nữa là mình nhận nợ của họ đời này chưa trả thì đời sau sẽ trả. Nhờ gặp Phật pháp họ sẽ trở thành người hiểu đạo lý. Ðó mới gọi là có duyên với chúng sanh. Thầy nợ ngập đầu nên bây giờ chúng hội mới đông thế này, chớ không có nợ chắc là không đông vậy đâu. Thôi, nói nhiều khô cổ, trả nón đây, Thầy về.

››*

Nếu biết tâm không thật, thân không thật thì có ai chê mình xấu, chỉ bình thản bỏ đi, hoặc khi mình nghĩ thế này người kia nghĩ khác, chỉ tự bảo: “ừ, giả dối”, rồi thôi, không giận hờn gì. Sống cả ngày cười hoài. Vậy mới là tu, mới là sống được với đạo. Nếu mười người có mười góc để đứng, không ai hợp với ai hết thì sống không có hòa. Không hòa gọi là Tăng được chăng? Tụi con tuy là Ni nhưng cũng là Tăng, là hòa hợp chúng.

Vì vậy, hiểu rồi mình bỏ qua hết những việc không ra gì, không quan trọng để cùng sống hòa vui tu tập, sao cho giờ phút nào cũng là giờ phút tỉnh giác, không mê. Mê vì lầm thân giả dối, mê vì lầm tâm hư ảo, đó là phương trời trầm luân sanh tử. Tụi con tu theo đạo giải thoát, mỗi khi đắp y đọc bài kệ gì? Ðắp lá y vào mình thì phải tu đúng theo hạnh giải thoát, mà hạnh giải thoát không cho phép mình theo đuổi một tư tưởng nào hết. Mọi tư tưởng đều lặng, đều sạch mới là giải thoát sanh tử. Chỉ một tâm thanh tịnh mới là giải thoát sanh tử.

Ði trên con đường giải thoát, chúng ta đừng đeo mang buồn giận, tham sân si, những thứ đó là trầm luân. Ai muốn giải thoát phải tu hành đàng hoàng chớ không nên chần chừ lôi thôi. Ðến khi ngã bệnh nằm xuống không trốn tránh đâu được. Chúng ta tu vì giải thoát sanh tử. Muốn giải thoát sanh tử thì tất cả tham, sân, si, buồn, thương, giận, ghét phải xả. Còn đeo mang một cái nào trong đó tức còn trầm luân.

Mong ba tháng an cư này, chư Ni ở Thiền viện Trúc Lâm và những người nhập hạ ở tư thất ráng tu hành cho thanh tịnh, đừng ôm ấp buồn, thương, giận, ghét, tham, sân, si, được vậy đời tu của mình rất xứng đáng. Nếu đeo mang những thứ đó là uổng đi một đời tu. Ðây là lời nhắc nhở và mong mỏi của Thầy.

››*

Hôm nay Thầy nhắc lại câu chuyện “Niêm hoa vi tiếu”. Một hôm, đức Phật lên tòa mà không giảng nói gì cả. Ngài chỉ cầm cành hoa sen đưa lên, miệng hơi mỉm cười, rồi đưa mắt nhìn khắp. Nhìn cả chúng thấy không có gì lạ. Ðến ngài Ca-diếp nhìn lại Phật mỉm cười. Ngay đó Phật mới nói rằng: Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm... nay giao phó cho ngươi.

Tụi con thấy, chỗ then chốt cuối cùng đức Phật tìm ra sau bao nhiêu năm khổ sở, nay nói thẳng trong chúng lại không ai biết. Cũng như bây giờ đối với mấy người mới tập tu, mình nói có tánh Phật, họ không tin, phải nói tu là làm lành, lánh dữ, tạo phước... họ mới hiểu. Ðức Phật thấy chỗ tột cùng rất gần gũi, thực tế, nhưng bây giờ nói sao cho người ta biết đây! Không thể nói được cái đó, buộc lòng phải nể tình chư thiên mà dùng phương tiện. Do đó Ngài mới dạy nhiều pháp. Các pháp thảy là phương tiện, nhưng cuối cùng đều trở về chỗ vắng lặng. Tâm an nhiên tịch tĩnh tức là không còn niệm khởi, là nhất tâm. Nhất tâm là vô tâm, vô tâm là không còn niệm nào hết. Tất cả pháp Phật dạy đều đi tới chỗ cuối cùng đó.

Ði theo lối phương tiện thì phải đủ bao nhiêu công hạnh, nên Bồ-tát phải đủ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, xa lơ xa lắc. Còn đằng này đi thẳng, ngay đó nhớ là trở về giác, còn mê tức chạy theo tình thức, tạo nghiệp luân hồi. Nhớ trở về Tánh giác thì niệm không còn. Mà niệm không còn thì cái gì dẫn mình đi trong sanh tử.

Trong bài Tín Tâm Minh, Tam Tổ cũng nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm” tức tín tâm không có hai, còn hai là đối đãi mất tín tâm. Còn Lục Tổ thì dạy “không nghĩ thiện, không nghĩ ác”. Vừa dấy niệm thiện ác là đi trong luân hồi. Ðơn giản vậy đó mà sâu xa vô cùng. Khi thấy được chỗ này rồi thì sống trong cái thật, bởi vì không ai là không có tánh biết, phải không?

Người thế gian có sống tức có cái biết, mà không bao giờ biết cái như thật của mình, chỉ biết theo cái bóng sanh diệt của họ. Do theo bóng sanh diệt nên hằng ngày tạo nghiệp luân hồi. Như vậy có đáng thương không? Mà thương họ bằng thương ai? Thương họ bằng thương mình, sao cũng ngu xuẩn bao nhiêu đời, phải không? Cái thật của mình đang có lại không chịu nhìn nhận.

Tụi con nghĩ xem có ai ngu hơn là nhìn gương mà cứ nhớ bóng, không biết đến gương. Vậy mà hầu hết mọi người nhìn gương chỉ nhớ bóng. Soi gương coi có gì ở trong đó, bóng này bóng nọ bóng kia chớ không thấy gương đang trong trẻo như thế nào. Chúng ta đang sống mà quên mình. Quên mình là mê, là đi trong luân hồi sanh tử.

Do đó phải tỉnh táo, áp dụng ngồi thiền. Tuy ngồi thiền là còn kềm, còn cố gắng, nhưng nhờ vậy các thứ lăng xăng lặng hết. Lúc ấy tụi con mới nhận được cái thật. Mới thấy chuyện tu của mình không có gì là huyền bí thần thông cả, chỉ là đừng lầm mê cái hư giả, buông cái hư giả để trở lại chân thật, đó là gốc giải thoát sanh tử. Còn niệm thì tụi con không bao giờ giải thoát sanh tử.

Thường chúng ta hay nói làm lành là tốt. Ngày mai tụi con học kinh Kim Cang mới thấy dù làm lành bao nhiêu đi nữa cũng không bằng trì bốn câu kệ trong kinh. Ðó là để đánh tan cái chấp lầm cho cảnh là thật và vọng tưởng là thật. Biết những thứ đó chỉ là tướng giả tạm sanh diệt bên ngoài, là cái bóng không thật để mình sống với cái chân thật. Ðây mới là trên hết, là cứu kính tột cùng.

Thấy và hiểu được như vậy tụi con sẽ nắm vững đường tu. Nếu không hiểu vậy thì đối với đường tu tụi con còn mơ màng. Hổm rày có mơ màng không? Thôi bữa nay nhắc bao nhiêu đó để tụi con nắm vững chủ trương, đường lối của mình.

 ››*

Cuộc sống ở đây tụi con thấy như lợt lạt, không có tình cảm, nhưng chính cái lợt lạt đó mới tu được. Tu mà nặng tình cảm quá không giải thoát được đâu! Tụi con muốn giải thoát hay luân hồi? Có muốn trở lại để rồi cũng là cha mẹ, là anh em nữa không? Hay muốn một phen đi không lại, cố tu đắc đạo để độ cha mẹ?

Tu có hiếu là phải độ được cha mẹ, đừng lầm luyến thương cha mẹ là có hiếu, là tốt. Hiếu có hai phần: Ở thế gian, hiếu với cha mẹ là lo phần vật chất, giúp đỡ cha mẹ, nhưng khi chết có cứu được cha mẹ không? Còn người tu chúng ta có hiếu với cha mẹ là ráng tu, nhờ tu mà mình cứu cha mẹ ra khỏi trầm luân. Ðó mới là điều quan trọng. Tụi con đứa nào khờ cứ tưởng về thăm là có hiếu, nhưng thật ra tu được mới có hiếu. Về thăm mà mình tu không ra chi thì cũng không ích lợi gì cho cha mẹ. Tụi con hiểu được điều này chưa?

(Hòa thượng nhìn một cô mới đến tập tu, hỏi:)

- Còn con, ba mẹ không gởi vào tu mà thích quá tự vô hả?

- Dạ thưa Sư ông, ba con cho tu, nhưng ba con không có can đảm đi gởi.

- Ba má cho tu thì con ráng tu để sau này về độ ba má.

(Hòa thượng nhìn quanh rồi nói:)

- Mấy đứa tu lâu, tu kỹ nhớ nhắc cho mấy đứa mới sau này, chớ Sư ông già rồi không nhắc hoài được. Ở đây đứa nào tu lâu, tu kỹ giơ tay coi? Không có ai dám giơ tay? Vậy là tu lơ mơ sao?

- Thưa Thầy tu lơ mơ thì không dám lơ mơ, nhưng tu kỹ e không dám nhận mình tu kỹ.

- Thật ra nếu tụi con khéo tu, hiểu Phật pháp rồi, tụi con mới thấy giá trị của người tu là phi thường, chớ không như người ta tưởng. Ðố tụi con biết phi thường chỗ nào? Nói đúng là giỏi! À, điều thiên hạ bóp đầu, bóp trán khổ sở thì mình lại cười, phải không? Việc thiên hạ rên rỉ mình vẫn thản nhiên, chuyện thiên hạ khóc lóc, kêu trời kêu đất mình cũng tự tại. Ðó là phi thường, tụi con làm được cái đó không? Phải ráng làm cho được.

 ››*

Thường người ta cứ nghĩ khi cùng huynh đệ luận bàn đạo lý hay nói chuyện, vui cười lúc đó mới vui, phải không? Còn khi ngồi một mình thì vui hay buồn?

- Dạ, không vui cũng không buồn.

- Có người ngồi một mình thấy sao mặt mày âu sầu quá. Thật ra, người biết tu càng tu càng vui. Có người thì vui với người, không người vui với mình. Tự tại vậy đó, cái vui này mới thật. Còn đợi ai chọc ghẹo mới vui, không có ai lại buồn, đó không phải là cái vui thật. Nhiều khi người ta hỏi tụi con tu làm sao, tụi con không biết trả lời. Bây giờ nói nghe coi cô giáo, tu khó hay dễ?

- Dạ, con tu cũng bình thường.

- Bình thường mà ai chọc tức có giận không?

- Thưa Thầy, mới nghe nói thì nổi giận liền nhưng sau bớt đi đôi chút.

- Ờ! Vậy là có giận. Chừng nào người ta nói trái ý mà vẫn cười mới thật là bình thường nghe, chừng đó mới là thứ thật. Nói trái ý mà đỏ mặt liền chưa phải thứ thật, nghe chưa mấy cô sắp đi ngoại quốc! Người ta nghe nói mình làm Trụ trì, bèn thử tìm cách nói vài ba câu, mình liền nổi sân lên là kỳ lắm.

››*

Hồi Thầy ra ngoài Bắc năm 1991, đi các chùa để nghiên cứu lịch sử chư Tổ, một buổi chiều Thầy xuống đò qua sông, xe còn ở bên kia, Thầy qua trước. Con sông có bờ đê cao, có mấy đứa chăn bò, tụi nó thấy quí Thầy liền chạy lại hỏi chuyện. Nghe quí Thầy trả lời, nó nói: “Mấy Thầy ở trong Nam hả? Trong Nam nói chuyện nghe được đó!” Hồi xưa Thầy nghĩ tiếng miền Nam nghe quê mùa quá, nhưng sao bây giờ đi đâu nói người ta cũng chịu. Tiếng miền Trung tụi con nói hơi khó nghe một chút, nên khi đi giảng phải tập nói pha pha một chút cho người ta dễ nghe.

Làm sao từ đây về sau, những đứa đi giảng ở gần, lâu lâu Thầy được tin người ta nói quí cô giảng nghe được, giảng đạo lý tốt, đó là Thầy yên được một mối. Còn mấy đứa đi xa, lâu lâu có thư gởi về nói quí cô làm Phật sự tốt, là Thầy yên lòng. Trái lại nếu lâu lâu nghe gọi điện thoại về mắng vốn thì Thầy mệt lắm. Cho một người đi đâu là có trách nhiệm nặng. Tụi con được đi giảng riêng là có phước đó. Ði với Thầy khổ lắm, biết tại sao khổ không? Vì ai cũng đòi Thầy giảng hết, không chịu nghe tụi con.

Kỳ này Thầy đi ngoài Trung, tính đi sáu ngày: Xuống Phan Rang một bữa, ra Nha Trang hai ngày, Quảng Nam hai ngày, và một ngày về. Nhưng bây giờ Ðà Nẵng mời giảng một buổi nữa nên ở thêm một ngày, vậy là đi sáu ngày, về một ngày là bảy. Nợ thì phải trả biết làm sao!

- Thưa Thầy, Thầy không đi máy bay?

- Thôi, máy bay làm chi!

- Thưa Thầy, chuyến ra Thầy đi xe, khi về có chuyến bay Thầy đi thẳng về Ðà Lạt cho đỡ mệt.

- Thôi, chờ máy bay hết hơi con ơi! Ðâu phải mình muốn đi giờ nào là có liền.

- Thưa Thầy, ở ngoài đó mua vé sẵn cho Thầy về.

- Không đâu, mình về đúng giờ bay của nó mới được. Ðâu phải hô đi là đi như xe hơi.

- Thưa Thầy, đường xa Thầy đi nhọc dữ lắm.

- Thì cùng khổ với nhau, chớ chẳng lẽ khi đi cả một xe mà lúc về có mình Thầy đi máy bay.

- Nhưng Thầy làm việc nhiều và Thầy lớn tuổi.

- Có sao đâu!

- Mấy người kia đâu có giảng, đâu lớn tuổi như Thầy.

- Không có sao!

- Ði xe về cực lắm thưa Thầy, lúc Thầy đi ra, có nghỉ từng chặng để giảng, còn đi về không ghé đâu cả, đi máy bay là hợp lý nhất đó, thưa Thầy.

- Thầy thấy đi xe là hợp lý nhất.

- Thầy đi xe ai cũng xót xa hết.

- Xót cái gì?

- Thầy đi xe cực.

- Hồi xưa cưỡi ngựa thì sao? Bây giờ đi xe than cực. Hồi xưa ông bà mình nói câu “lên xe xuống ngựa”. Bây giờ lên xe sướng quá rồi lại còn chê nữa. Ðòi hỏi quá!

- Thầy nói tụi con hết ý kiến luôn.

- Thầy có cho vài đứa tụi con đi theo không thưa Thầy?

- Không. Ở ngoài đó người ta sắp đặt tử tế lắm rồi, đi theo làm chi nữa.

- Thưa Thầy, Sư bà chùa con quí Thầy lắm, thế nào Sư bà con cũng thỉnh Thầy.

- Còn tùy. Chương trình ở ngoài đó sắp đặt, họ dự định mời Thầy giảng tại Giáo hội Tỉnh, rồi đi thăm ít chùa. Nay lại có ông Nguyễn Kính yêu cầu Thầy nói chuyện với giới trí thức một bữa, Thầy phải ở lại qua ngày sau. Ông nói là người tu ngoài đó phần nhiều biết Tịnh độ, Mật tông mà chưa biết Thiền là gì hết.

- Thưa Thầy, Thầy ra đó Tăng, Ni, Phật tử mừng lắm.

- Thầy đi đây là tạo cái duyên cho mấy đứa con sau này về làm việc. Giờ Thầy đi ra giảng trước cho họ hiểu về thiền, khi tụi con về sẵn có cái đà. Việc Thầy làm đây là để lo cho mấy đứa. Ở đâu Thầy cũng đi trước, sau này ai đi ra làm Phật sự cũng đỡ nhọc nhằn vì Thầy đã mở đường cho rồi.

›*

Tỉnh hội ở Ðà Nẵng mời Thầy giảng chớ Hội An thì chưa. Họ mời giảng về tu thiền, nhưng Thiền tông khó nói, giảng sao cho người ta hiểu được, ứng dụng tu được không phải là dễ. Tụi con có nghe đủ mấy cuộn băng Thầy giảng ở nước ngoài không? Ở Úc chưa nghe à?

- Thưa Thầy mấy bữa này tụi con nghe Khóa Hư Lục, vì mấy đứa nhỏ lúc trước chưa được học.

- Lúc qua bên Thiền tự Tuệ Căn ở Úc, có mấy người đem máy móc lại xin Thầy trả lời những câu hỏi của Phật tử bên Mỹ, Canada và Úc. Họ hỏi trực tiếp và Thầy trả lời trực tiếp trên mạng. Nghe nói Từ Chơn đang ở bên Mỹ, tình cờ cũng nghe được, nó mừng quá chừng. Mấy ông Úc hỏi, có người thông dịch lại, Thầy trả lời tiếng Việt, sau đó họ dịch ra và phát đi, xứ này xứ nọ đều nghe được.

Tụi con thấy Thầy đang giảng được, làm Phật sự được, vậy mà Thầy tuyên bố nghỉ, tụi con có tiếc không?

- Dạ, tiếc.

- Ðược nghỉ là mừng. Tại sao mừng? Vì người tu chúng ta có khi trên lý thuyết nắm vững nhưng thực hành chưa tới. Mình nói lý thuyết hay mà thực hành chưa tới thì khi gặp việc rồi cũng phiền não như ai. Cho nên trách nhiệm của người tu không giản đơn. Cái gì mình nói được thì phải làm được, chịu không?

- Dạ, chịu.

- Chớ còn lên giảng thì nói thao thao bất tuyệt, lúc xuống nổi sân đùng đùng, cái công giảng hồi nãy đổ sông đổ biển hết rồi phải không? Cho nên những điều gì mình dạy người ta phải vượt qua, khi xảy đến với chính mình cũng phải tự tại mới được. Còn một cái khó nữa là khi mình đã thấy thân tạm bợ, cuộc sống hư dối không thật thì lúc sắp nhắm mắt, mình phải cười.

Bởi vậy trách nhiệm của người giảng dạy thấy như khó mà dễ, còn ứng dụng tu hành cho được để minh chứng lời nói của mình là thật, là mình đã làm được, việc này mới khó. Thầy phải làm cho được điều đó. Giả sử người ta chửi Thầy, Thầy không giận rồi đó, nhưng tới lúc ra đi Thầy có tự tại chưa? Cho nên Thầy phải có thời gian ngồi lại, tỉnh táo, khỏe khoắn, lúc nhắm mắt ra đi mới làm chủ được. Mừng cho Thầy chớ sao lại trách.

Giả sử tụi con có một vị Thầy nói rất hay, ai cũng quí trọng, nhưng đến lúc gần tịch lại mê man không biết gì, tụi con có buồn không? Bởi vậy điều đó rất khó. Thầy chủ trương làm việc gì phải tròn việc đó, không phải làm chỉ để làm, hoặc tự mãn với việc làm của mình. Làm thầy như vậy không đúng nghĩa là thầy. Làm thầy mà bình thường nói nghe hay lắm, gặp việc lại luýnh quýnh sợ sệt đủ thứ, thầy đó bỏ đi phải không?

Tụi con tu được kha khá chưa? Người ta lúc bình thường nói nghe hay lắm, lý này lý nọ dường như thông suốt, nhưng khi gặp việc vẫn y nguyên, ai sao mình vậy. Ðó không phải là người tu mà chỉ là người lý giải thôi. Tụi con thấy khó không? Khó nhưng phải làm được. Bắt đầu làm thầy đi dạy, đi giảng, làm Trụ trì là phải chuẩn bị cho vững, gặp việc phải nghiêm chỉnh đàng hoàng để người ta thấy mình xứng đáng. Ở đây chưa ai làm thầy nhưng khi đi ra tụi con được người ta xem là thầy rồi, đâu có còn cô này cô nọ nữa. Làm thầy mà không xứng đáng thì rất uổng!

Mục Lục